Tổng hợp các bài văn mẫu, bài phân tích, tóm tăt vợ nhặt của Kim Lân. Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ , Sơ đồ tư duy Vợ Nhặt, Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Phân tích nhân vật vợ Tràng, phân tích tình huống độc đáo
Đề bài: Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về thân phận người phụ nữ xưa và nay.

 Dàn ý chi tiết về số phận người phụ nữ xưa và nay 2020

1. Mở bài
Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “vợ nhặt” trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.
 
2. Thân bài
Số phận bất hạnh
a. Mị
Mị vốn là một cô gái dân tộc Mèo, con nhà nghèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình yêu đã không đến với cô gái nghèo khổ này. Mị mang bi kịch một cô gái với niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát. Chỉ vì món nợ truyền kiếp – ngày trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được nợ nên Mị phải đem thân làm dâu trừ món nợ ấy.Kể từ khi làm dâu cho nhà thống lý,Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương,tủi nhục tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị là một thứ nô lệ không công. Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người lại bị rẻ rúng như vậy. Bị giam hãm đày đoạ trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống lý, Mị đang chết dần, chết mòn với năm tháng. Thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị gần như tê liệt sức sống. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không hiện tại và không cả tương lai. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi”, “cô ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cuộc đời Mị chỉ còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng không có cả ý thức về cái chết nữa.
b. Người vợ nhặt
Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn, mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “ Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Anh Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân cư ngụ không có khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, không cần phải cưới hỏi gì. Thật tủi nhục thay cho thân phận người “vợ nhặt” – vợ theo không, ngay cả cái tên thị cũng không có. Chỉ với bốn bát bánh đúc người đàn bà nghèo khổ chấp nhận theo người đàn ông chưa từng quen biết. Ngoại hình người vợ nhặt được phác hoạ bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp” trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt “hai con mắt trũng hoáy”. Những chi tiết đó không thể không khiến ta nghĩ đến một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí như một bóng ma vật vờ. Cái đói, cái khổ không chỉ làm thay đổi đi vẻ bề ngoài của con người mà còn làm mất đi cái bản tính hiền hậu, dịu dàng đáng quí vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt” của người đàn ông xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!

Kết: Như vậy, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX đầy ấn tượng và đặc sắc. Đó là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng- thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ.Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
Phẩm chất tốt đẹp
a. Mị (tập trung vào sức sống tiềm tàng)
Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cô “uốn chiếc lá trên môi , thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê , ngày đêm thổi sáo đi theo Mị “. Đấy là dấu hiệu về một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn, biểu hiện của một sức sống trẻ trung, rạo rực … Mị cũng đã từng đựơc yêu và cô cũng đã từng yêu. Điều quan trọng là nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ . Và trong tác phẩm của mình nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy sức sống tìm tàng đó bằng một quá trình phát triển tâm lí, hành động khá sâu sắc và hợp lý. Với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan . Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đoạ đày, đau khổ kia vẫn còn âm ĩ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi.Và điều ấy đã đến, đó là vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Những yếu tố ngoại cảnh đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng dẫn đến sự diễn biến tâm lý nhân vật nó đóng vai trò của nhân tố gợi hứng đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ , một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc , tâm trạng và cuối cùng là hành động . Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say lịm người, cái say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên . “lòng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”.Quá khứ dồn dập trở về rất sống động , rất rõ , thiết tha … nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng :Mị vẫn còn là một con người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi , A sử với Mị không có lòng với nhau nhưng phải ở với nhau …”, dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”. Vừa lúc A Sử về biết ý định của Mị ,hắn lấy dây trói nghiến cô vào cột nhà rồi bỏ đi chơi . Suốt cái đêm đen tối bị trói đứng cái cột giữa nhà thống lí đó Mị hết thiếp đi rồi chợt tỉnh dậy , nhưng hình như cả đêm ấy, tiếng sáo dìu dặt của đám bạn trai vẫn đưa tâm hồn Mị sống lại những ngày đẹp đẽ ở quê nhà , tiếng sáo vẫn đưa cô đi theo những cuộc chơi của đám trai làng . Tâm hồn cô vẫn sống với không khí của ngày hội xuân. Cô định bước đi nhưng tay chân đã bị trói chặt cứng, không tài nào cựa quậy được… Sau cái Tết ấy , những năm tháng nặng nề trong phân thận nô lệ tủi nhục của Mị tưởng lại cứ âm thầm lặng lẽ trôi đi….cho đến khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói vì tội để mất trâu của nhà thống lí. Cái cảm giác ban đầu của Mị thật thản nhiên. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại…”thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây… Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hông Ngài. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới. Đó chính là cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài đối với những kiếp người bất hạnh, đau thương- một cái nhìn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp trong mỗi con người.

b. Người vợ nhặt (tập trung vào khát vọng sống)
Là một người đàn bà bị cái đói xô đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần hậu của người phụ nữ lao động .Bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ bị chết đói nên có lúc bên ngoài thành ra trâng tráo, trơ trẽn .Nhưng đó không phảỉ là bản chất vốn có của chị phải đến lúc cùng đường , bị rơi vào tình thế phải theo không một nguời đàn ông xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ rõ . Cả đến lúc đã gặp cụ Tứ và đã được chấp nhận, được cảm thông, thương yêu thì trong bóng tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè khép nép. Nhà văn dường như đã hiểu thấu đến tận cùng nỗi lòng của chị và thể hiện được một cách thật tinh tế những gì đang xảy ra trong lòng người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng. Chắc là với, chị con đường âý dài dặt và xa lắm, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách đễ dàng ? Liệu cái hạnh phúc “thử liều nhắm mắt đưa chân “ này có cho chị được một chút ấm áp hay lại còn khốn nạn, cay đắng hơn ? Liệu cái anh chàng xa lạ có vẻ cũng dễ mến này có giúp chị thoát khỏi những cảnh chết đói hãi hùng trước mặt ? Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột trong lòng chị đã phải bật lên thành tiếng , chị đã mấy lần sót ruột hỏi Tràng: “sao lâu thế” “sắp đến chưa” “vẫn chưa đến à?”rồi “nhà có ai không ?” …Chị hỏi vào tình cảnh phải theo không Tràng cũng chẳng qua chỉ là bất đắt dĩ cần tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể may ra tránh được sự chết đói. Nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ là một cái nhà vắng teo, trên mảnh vườn mọc lỗn nhổn những bụi cỏ dại thì chị không nén nỗi một tiếng thở dài. Hoá ra cái gia cảnh của anh mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “rich bo cu hả” là thế này đây. Nhưng chị còn biết sao được nữa, chị cảm thấy thất vọng , buồn tủi, chua sót quá nên mặt cho Tràng lăng săn đôn đả, “thị nhép mép cười nhạt nhẽo […], hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. “Tại sao đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi mà người phụ nữ kia vẫn ôm khư khư cái thúng thế ?” Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá ư chật chội, chị phải biết để nó ở đâu ? Hay vì giờ đây cái thúng là tài sản duy nhất chị có nên chị không thể xa rời.
Không tìm được sự no đủ nhưng dẫu sao, chị cũng bớt được một nổi lo trong dạ khi biết nhà tràng chỉ có một mẹ già. Dĩ nhiên, chị hiểu đấy là đỡ phức tạp , khả năng bị xua đuổi hắt hủi bị giảm xuống mức thấp nhất , mà đấy chẳng phải là một nửa sự sống đó sao? Cho nên lúc ấy chỉ đã có thể “tủm tỉm cười” rồi lại đùa với Tràng “đà mỗi một mình tôi lại còn mấy u. Bé lắm đấy”. Và mặc dù vẫn còn rất buồn vì thất vọng chua chát,nhưng hầu như chị chẳng nói năng gì kể từ khi chứng kiến gia cảnh của mẹ con Tràng. Nhưng trước sự cảm thông , yêu thương đùm bọccủa những người xung quanh trong một mái ấm gia đình. Sáng hôm sau, chị đã săm sắn quét dọn cùng với mẹ chồng thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một cô con dâu thực sự trong nhà. Và chính điều ấy đã đem đến cho chị những thay đổi đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên “Tràng nôm thị hôm nay khác lắm. Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chua chát như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh “

Đặc biệt là trong bửa ăn của một ngày mới, người nói đến “toàn chuyện vui chuyện sung sướng về sau này “ lại là bà cụ gần đất xa trời, con người nói đến đấu tranh “ phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật duy nhất không có tên trong tác phẩm . Từng đoàn người “ những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp[…]cờ đỏ bay phấp phới” do câu chuyện của chị gợi ra có ĩe cũng là một dụng ý nghệ thuật , nhằm khẳng định khát vọng và sức sống manh mẽ của những con người như chị.
Như vậy, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin yêu và đức hi sinh cao cả đã phát họa nên bức chân dung về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX.
3. Kết bài
Người phụ nữ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam bức tượng đài bất hủ của những con người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn đi tìm, hướng tới những gì tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc đời. Họ luôn là những mẫu hình lí tưởng về người phụ nữ Việt Nam thời kì đó, cho hôm nay và cả về sau.Họ luôn trường tồn trong tâm thức người đọc là “Những con người đáng thương nhưng đáng trọng.”

Thân phận người phụ nữ xưa và nay qua hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Trong văn học, ở thời đại nào, số phận người phụ nữ cũng là điều khiến những người cầm bút trăn trở nhiều nhất.
Những trang viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong người đọc nhiều trăn trở hơn cả. Đã qua rất lâu rồi thời của những cô Mị (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài), thời của những người “vợ nhặt”, của bà cụ Tứ (Vợ nhặt- Kim Lân), nhưng câu chuyện về cuộc đời của họ vẫn làm ta khôn nguôi nghĩ về số phận người phụ nữ xưa và nay.
Từ chị Dâu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) đến Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao), đến Mị, người “vợ nhặt”, bà cụ Tứ, và cả người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu những năm sau này, văn học đã cho chúng ta chứng kiến bao nỗi cơ khổ, nhọc nhằn của người phụ nữ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng nhưng bao phủ lên cuộc đời họ đều là màu đen hắc ám. Đè nén, áp bức, thống trị họ không chỉ là gồng cùm, xiềng xích của chế độ mà có khi là sự tàn bạo của những người chồng. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ mãi mãi yếu thế. Cuộc đời nhiều thăng trầm đã tiếp thêm cho họ sức để kháng mạnh mẽ. Trong nước mắt, tủi hờn, họ vẫn không ngừng hướng về sự sống, về tương lai sáng lạn.
Là cô gái lao động miền núi, ở Mị hội tụ tất cả những nét đẹp của một thiếu nữ miền sơn cước: xinh đẹp, giỏi giang, đảm đang, hiếu thảo. Chỉ vài chi tiết rất nhỏ, Tô Hoài đã khiến chúng ta phải say mê bông hoa rừng này, huống gì những thanh niên trai bản đã bị Mị hút hồn, ngày đêm thổi sáo theo Mị. Mị sinh ra trong một gia đình nghèo. Đó không phải là điều bất hạnh đối với cô gái trẻ trung, yêu đời. Nhưng cha Mị không được thách cưới cho con gái. Mị không được ném pao chọn người yêu, không được tìm người yêu trong phiên chợ tình. Mị cay đắng vô cùng khi sớm phải chịu cảnh làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ nay cô gái phải gánh trả bằng cả hạnh phúc tuổi trẻ của mình. Tiếng nhạc sinh tiền cúng ma buổi sáng hôm Mị bị bắt đã trói chặt cuộc đời Mị vào nhà thống lí. Mị đã làm dâu nhà nó thì có chết cũng làm ma nhà nó. Số phận người con gái miền núi đã được an bài. Không ai chống lại được và không ai dám chống lại thần quyền cả. Thân phận đàn bà như Mị lại càng không thể vùng lên được, huống hồ, Mị còn cha nữa.
Mị về làm dâu nhưng thực chất là làm người ở cho nhà thống lí. Không ai nghĩ rằng được làm dâu nhà giàu mà Mị lại cơ khổ đến vậy. Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị đã biết: “đàn hà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”. Mị đâu được ăn sung mặc sướng, đâu được “ăn trên ngồi trốc” như bà Ba – vợ Bá Kiến (Chí phèo -Nam Cao), hay như Thị Mịch ( Giông tố – Vũ Trọng Phụng). Sự tồn tại của Mị được đánh dấu bằng các công việc lặp đi lặp lại, vất vả, buồn tẻ: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi, Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài như vô tình kể lại cho chúng ta công việc thường nhật của cô con dâu nhà Pá Tra, nhưng thực chất chúng ta lại được chứng kiến sự thật đau lòng. Công việc nhọc nhằn đày ải thân xác và những tủi hờn, khốn khổ trong sâu thẳm tâm hồn lúc nào cũng phảng phất trên nét mặt cô gái. Nếu không phải nhà thống lí tham tiền, đày ải dâu con trong nhà, lẽ nào bao việc cực nhọc, triền miên như thế phải đến tay Mị? Bản chất thống trị, bóc lột của bọn cường quyền miền núi không được trực tiếp miêu tả nhưng ít nhiều lộ hiện trong câu chuyện cuộc đời Mị. Mị cay đắng nhận ra cuộc sống của mình không bằng con trâu, con ngựa.
Thân phận của Mị làm ta không khỏi nhớ đến nhân vật “em” yêu trong truyện thơ dân gian Xống chụ xon xao của dân tộc Tày. Ở thời đại nào, những cô gái nông dân miền núi cũng không thoát được sự áp chế hà khắc, thậm chí tàn bạo của cường quyền và thần quyền nơi mình sống. Họ không được tự do lựa chọn người yêu và một khi bị cưỡng bức lấy chồng thì muôn đời phải làm trâu ngựa cho nhà chồng. Sống với chồng, nhưng người con gái ấy cũng chỉ giữ được phận tôi đòi hèn mọn. Hành động A Sử bắt Mị về làm vợ thực chất hành dộng cưỡng bức chiếm đoạt của tên con trai nhà quan, hòng thể hiên uy lực của cường quyền. Vậy nên, sau Mị, hắn vẫn tiếp tục đi lùng bắt những cô gái khác.
Càng sống trong nhà giàu, tâm hồn Mị càng héo hon, tàn lụi. Bao nhiêu ngày ở nhà thống lí là bấy nhiêu ngày Mị cam chịu sống trong địa ngục trần gian. Sự đè nén của chế độ phong kiến và thần quyền miền núi đã làm Mị mất dần sức phản kháng, gần như tê liệt hoàn toàn. Mị không khóc như tháng đầu mới về nhà A Sử, cũng không nghĩ đến chuyện tự tử nữa. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Chính Mị cũng nghĩ “mình cứ chỉ ngồi mãi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Cô gái vốn trẻ trung, yêu đời, khát khao được yêu, khát khao cuộc sống tự do lại phải sống trong cảnh giam hãm, tù túng tất nhiên không thể trông đợi tương lai tươi sáng được.
Nhưng im lặng không có nghĩa là thoả hiệp, cam chịu chấp nhận hoàn toàn. Tiếng sáo gọi bạn tình và men rượu ngày xuân đã thức dậy nơi Mị niềm khát khao sống. Hành động cởi trói cho A Phủ mặc dù tự phát nhưng là đỉnh điểm của sự bộc phát một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Mị giải thoát cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho chính mình. Số phận của Mị dù thế nào đi chăng nữa cũng đã rẽ một bước ngoặt và chắc chắn cuộc sống mới sẽ không u ám như cuộc sống trước đây.
Nếu như vây hãm cuộc đời cô gái lao động người Mèo trong câu chuyện của Tô Hoài là cường quyên và thần quyền miền núi, thì thế lực đè nén, áp bức người đàn bà không tên trong Vợ nhặt của Kim Lân là chế độ thực dân, phát xít. Thế lực thống trị này có đẳng cấp cao hơn, tinh vi hơn, xảo quyệt hơn rất nhiều. Câu chuyện của Kim Lân không xuất hiện bóng dáng những tên đế quốc đó, nhưng sự hoành hành của nạn đói là bằng chứng tố cáo đanh thép nhất về tội ác của chúng, Cái đói làm “người chết như ngả rạ” người sống “xanh xám như những bóng ma”.
Người “vợ nhặt” trong truyện ngắn được miêu tả với thân hình gầy đét, trên “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ còn “đôi mắt trũng hoáy”. Cuộc đời cô gái kém nhan sắc này lại không được đảm bảo bởi thứ vật chất có giá trị nào khác. Không gia đình, không nhà cửa, thị sống cù bơ cù bất, ngày nào cũng ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay đợi ai có việc gì gọi đến thì làm. Cuộc sống nghèo đói không chỉ đẩy thị vào thế phụ thuộc mà còn làm phai đi ở thị những phẩm chất vốn có ở người con gái. Cái đói làm thị tối mắt trước miếng ăn, không ngại ngần, xấu hổ nên thị mới dễ dàng chấp nhận lời mời xã giao của anh cu Tràng: “Ăn thật nhá, ừ ăn thì ăn sợ gì” sau lời tự động viên mình là hành động “ăn thật” của thị. Thị “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc nên chẳng chuyện trò gì”. Chỉ chi tiết này cũng đủ để Kim Lân khắc sâu bao nỗi cơ nhục trong số kiếp người đàn bà ấy.
Thị trở thành người đói nhất trong đám người đói, người đáng thương nhất trong đám người khốn khổ. Khủng khiếp hơn, thị đã là người đàn bà mang thân phận rẻ rúng nhất khi liều lĩnh chấp nhận theo không anh cu Tràng, bất biết anh chàng là người như thế nào. Nhân vật Đào trong Mùa lạc (Nguyễn Khải) sau này dẫu không có nhan sắc, dẫu cuộc đời đã qua nhiều rủi ro nhưng không khi nào chị tự hạ thấp mình, bán rẻ mình. Có lẽ người “vợ nhặt” là hình ảnh đại điện cho sự thê thảm, đáng thương của người phụ nữ dưới ách áp bức của chế độ thực dân, phát xít. Đám bạn gái cùng ngồi trước cửa nhà kho với thị, chắc có ai đã khá hơn thị.
Nói đến cuộc đời người phụ nữ trong truyện ngắn của Kim Lân không thể bỏ qua cuộc đời của bà cụ Tứ. Nếu ghép hai mảnh đời của hai người đàn bà khốn khổ trong câu chuyện cũng chỉ được một cuộc đời khốn khổ. Người đàn bà ấy đã đi qua những tháng ngày cay cực nhất, đã chịu đựng nỗi đau mất đi hai người thân trong gia đình, và đến cuối đời, những giọt nước mắt cuối cùng cũng phải nhỏ xuống khi không thể lo cho con trai một đám cưới tươm tất. Cay cực, tủi hờn là tất cả những gì đã kết đọng trong cuộc đời người mẹ khốn khổ ấy.
Từ “vợ nhặt” đến bà cụ Tứ, chúng ta đã bắt gặp hai thế hệ phụ nữ khốn cùng nhất trong xã hội. Họ là nạn nhân thảm hại của nạn đói khủng khiếp những năm trước Cách mạng. Dẫu mỗi người có mang trong mình giấc mơ một tương tai tươi sáng, mỗi người đều cố quên đi cuộc sống thực tại của mình, đều cố gắng vun đắp cho gia đình bé nhỏ mới gây dựng nhưng chắc chắn những ám ảnh về cuộc đời tăm tối của họ sẽ không thể nguôi ngoai trong mỗi chúng ta.
Đọc Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, chúng ta đều được chứng kiến cuội đời của người phụ nữ Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỉ. Nếu để khái quát về số phận người phụ nữ xưa, chúng ta chỉ có thể nói rằng họ quá bị động, phụ thuộc, đáng thương. Họ không yếu đuối nhưng sức phản kháng của họ chưa đủ để chống lại các thế lực thống trị. Hơn nữa, tinh thần đấu tranh của những con người này chưa được vũ trang bởi sức mạnh tập thể nên chưa mang tính chất tự giác.
Đất nước sạch bóng quân thù, con người không phải đối mặt với các thế lực áp chế tàn tệ nữa. Dân tộc độc lập và người phụ nữ cũng đã được giải phóng, tất nhiên, đâu đó trong kẽ ngách xa xôi nào của cuộc sống sẽ vẫn còn những có gái như Mị. Nhiều phụ nữ vẫn bị người chồng vũ phu đánh đập tàn tệ, nhiều bé gái vẫn bị chính cha đẻ, cha dượng của mình cưỡng bức, nhiều em gái đi ở vẫn bị nhà chủ đánh đập tàn tệ. Chung ta có thể tin điều đó khi đọc Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, khi chứng kiến những thước phim mà các phóng viên quay được về tấm lưng đầy sẹo của em gái đi ở thuê.,. Điều đó không tránh khỏi bởi tàn dư của chế độ phu quyền vẫn còm bởi những tư tưởng hủ lậu vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn… Song, tôi tin, không còn bất kì cô gái nào phải tự hạ thấp mình vì miếng ăn như người “vợ nhặt”, không còn người mẹ già nào phải rơi lệ khi không thể cưới vợ cho con nữa.
Người phụ nữ ngày nay không còn chịu ách áp bức của bất kì chế độ bất công nào cả. Họ được tự do hoàn toàn, tự do trong tình yêu, tự do trong công việc, tự do trong mọi hoạt động sống. Cuộc đời họ do chính họ làm chủ. Họ bình đẳng với nam giới. Họ được tôn vinh trong các ngày lễ của giới mình. Họ được học tập, được làm việc, được hưởng thụ những thành quả lao động do mình lam ra. Trên xe buýt, phụ nữ có bầu được nhường chỗ. Càng ngày càng có nhiều người phụ nữ thành danh trong công việc của mình. Có những nữ nhà văn nổi tiếng như Phạm Tin Hoài, Thuận, Võ Thị Hảo…, có những nữ bác sĩ xuất sắc như Nguyễn Thị Minh Phượng, có những nữ chính trị gia tài giỏi như Nguyễn Thị Bình, Trương Mĩ Hoa, Hà Thị Khiết… Họ vẫn là người vợ, người mẹ hoàn hảo, vẫn làm tròn trách nhiệm trong công việc của mình. Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp của sự chủ động, năng động, của ý thức sâu sắc về giá trị và vị trí của mình trong xã hội.
Phụ nữ thời nay may mắn hơn phụ nữ thời xưa bởi họ được sống trong xã hội văn minh, bình ổn. Cuộc đời của họ có dịp được nở hoa, đơm trái. Họ đã bước lên nấc thang cao hơn, xa hơn so với những người của thế hệ trước.
Tuy nhiên trong xã hội vẫn có nhiều phụ nữ không làm chủ được bản thân. Họ sa đọa vào những trò vô bổ, những tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, mại dâm… Họ lạm dụng chức quyền của mình để tham tán tài sản của Nhà nước. Bản án cho Lã Thị Kim Oanh cách đây không lâu là bài học cho những người phụ nữ có quá nhiều tham vọng trong cuộc sống- Chính họ đã tự huỷ hoại mình, tự dìm cuộc sống của mình trong đó. Và lúc này, xã hội lại phải vực họ dậy, kéo họ thoát khỏi cảnh sống lầm lạc.

Một trong những vấn nạn của xã hội hiện nay là nạn hành hung và bắt cóc phụ nữ bán qua biên giới. Hàng năm, số phụ nữ bị bắt cóc bán qua biên giới vẫn không ngừng gia tăng. Đây là một trong những điều bất cập của xã hội hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ nông thôn ra thành thị lao động kiếm sống…
Làm thế nào để một nửa thế giới luôn được sống hạnh phúc và ngày càng được hạnh phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn ngập tràn trong tiếng cười?… Đó là những câu hỏi không dành riêng cho bất cứ ai, không dành riêng cho phái nam mà chính những người phụ nữ cũng phải trả lời chúng.

Thẻ:, ,