Tổng hợp các bài văn mẫu, bài phân tích, tóm tắt chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Phân tích tác phẩm ý nghĩa tác phẩm, tính huống chuyện ngắn, sơ đồ tư duy của các nhân vật trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Hoàng cảnh ra đời ý nghĩa nhan đề truyện
1. Dàn ý Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa
1. Đặt vấn đề
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của ông giai đoạn này chủ yếu thường hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết có thể nói không quá dòng tài năng của ông xứng đáng được xếp vào những hàng tài năng xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại bởi trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.
“ Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn từ cuộc sống nghệ thuật của thời kì mới. Thành công về nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc ông xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.
2. Thân Bài
* Khái niệm tình huống
– Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ giữa các nhân vật tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khác trọn vẹn. Các nhà văn lý luận vẫn đưa ra ba loại tình huống phổ biến.
- Thứ nhất là tình huống nhận thức mọi tình tiết, chi tiết trong truyện chủ yếu hướng tới sự lý giải giác ngộ nhận nhận thức của nhân vật.
- Thứ hai tình huống tâm lý: chủ yếu hướng tới việc khám phá diễn biến tư tưởng, tình cảm và tâm lý của nhân vật.
- Thứ ba là tình huống hành động: chủ yếu hướng tới hoạt động và bước ngoặt của nhân vật.
Trong truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một hệ thống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, tình huống nhận thức.
3. Kết bài
Vừa là đồng hương vừa là bạn chiến đấu của nhiếp ảnh Phùng là chánh án Đẩu. Đẩu là người tốt bụng, đầy trách nhiệm, anh luôn đứng về người phụ nữ nạn nhân của sự bảo hành để bênh vực họ. Anh mời người vợ đến tòa án huyện để khuyên bà ta ly hôn với chồng. giải thoát cho người đàn bà khỏi người chồng vũ phu: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với gã đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào” Chánh án Đẩu muốn giúp người đàn bà, muốn dùng pháp lý và đạo lý để bảo vệ chị ta như anh quả là xa vời. Thực tế khi chưa hiểu rằng cuộc sống của người phụ nữ làng chài cần có một người đàn ông làm trụ cột.
Văn mẫu Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa bằng chat GPT
Mở bài văn mẫu tham khảo
Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930 tại xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia vào bộ đội từ năm 1950 và tham gia chiến đấu trong khu vực hậu đồng bằng Bắc Bộ trước khi chuyển đến chiến trường Quảng Trị và Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ và đồng thời đã đóng vai trò quan trọng trong việc khởi đầu cuộc cách mạng văn học sau năm 1975.
Trước đó, ông sáng tác theo hướng lãng mạn và sử thi. Tuy nhiên, sau đó ông chuyển sang viết về các vấn đề xã hội và cuộc sống hàng ngày của con người với sự quan tâm đến đạo đức và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm của ông như tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau” (1970) và tiểu thuyết “Dấu chân người lính” (1972) với nhân vật trung tâm là những người lính đang chiến đấu chống lại quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước đã ghi nhận tài năng và danh tiếng của Nguyễn Minh Châu trong văn học hiện đại. Ông cũng là một trong những nhà văn tiên phong trong cuộc cách mạng văn học, tập trung đặc biệt vào giá trị nhân phẩm, đạo đức và quan niệm sống của con người trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể hiện qua các tác phẩm như tiểu thuyết “Miền cháy” (1977), “Lửa từ những ngôi nhà” (1977) và các truyện ngắn như “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,” “Bến quê,” “Khách ở quê ra,” và “Bức tranh.”
Vào năm 2000, Nguyễn Minh Châu được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật để tôn vinh thành tựu của ông.
Thân bài văn mẫu tham khảo
Trong tác phẩm truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa,” được sáng tác vào năm 1983, tác giả đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc ở giai đoạn sau của ông. Câu chuyện kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, đồng thời thể hiện cái nhìn của tác giả về thực tại cuộc sống, một cái nhìn sâu sắc và đầy tình yêu thương, cùng với sự băn khoăn và day dứt về bản chất của con người. Trong truyện ngắn này, tác giả gửi gắm những trải nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Theo ông, nghệ thuật chân chính luôn phải gắn bó với cuộc sống. Người nghệ sĩ không thể nhìn nhận cuộc đời một cách lơ đãng, đơn giản, mà cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người bằng cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của trí tuệ kết hợp với động lòng chân thành của lòng nhân ái.
Tác giả đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động trong cuộc sống khó khăn và hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện ra trong cuộc chiến tranh đạn lửa, mà ẩn chứa giữa cuộc sống hàng ngày đầy biến động.
Khi nhắc đến nghệ thuật viết truyện ngắn, ta thường nhắc đến ba yếu tố quan trọng: nhân vật, phong cách truyện kể và tình huống truyện. Trong số đó, việc sáng tạo tình huống truyện độc đáo đóng vai trò then chốt, quyết định thành công của tác phẩm. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Trong đó, tình huống hành động chủ yếu tập trung vào hành động có tính quyết định của nhân vật, tình huống tâm trạng khám phá sự phát triển cảm xúc và tình cảm của nhân vật, còn tình huống nhận thức chủ yếu là cắt cấu trúc giây phút “giác ngộ” về nhận thức sự thật của nhân vật. “Chiếc thuyền ngoài xa” được đánh giá là một tác phẩm xuất sắc bởi tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Đó chính là tình huống nhận thức và khám phá về cuộc sống và nghệ thuật của hai nhân vật là Đẩu và Phùng.
Tình huống bất ngờ trong truyện đã thay đổi cách hai người nhìn nhận những nghịch lý của cuộc sống. Trong khi thiên nhiên toát lên vẻ đẹp tuyệt đẹp, cuộc sống lại tràn đầy u ám và đáng buồn. Người có ý định tốt muốn giúp đỡ nạn nhân lại bị nạn nhân từ chối một cách dứt khoát. Người vợ bị chồng hành hạ, ngược đãi, nhưng vẫn kiên nhẫn chịu đựng và quyết không bỏ chồng, thậm chí bảo vệ chồng. Người chồng vẫn có trách nhiệm với gia đình, nhưng lại hành hạ vợ mỗi ngày.
Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh biển sớm sáng để thêm vào bộ ảnh lịch. Anh trở lại vùng ven biển miền Trung, nơi anh đã từng tham gia chiến đấu chống Mĩ. Phùng gặp lại Đẩu, người bạn chiến đấu xưa kia đã trở thành chánh án tòa án huyện và rất nhiệt tình giúp đỡ anh. May mắn thay, sau nhiều buổi sáng kiên nhẫn “mai phục”, Phùng đã chứng kiến khoảnh khắc kỳ diệu của nghệ thuật: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh, tôi chưa bao giờ thấy một cảnh ‘đất’ trời như vậy: trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền mờ ảo lòe nhòe trong màn sương mù màu trắng như sữa, được ánh mặt trời chiếu sáng, pha chút màu hồng nhẹ nhàng. Một số người lớn và trẻ em ngồi yên lặng như tượng trên mui thuyền, hưởng thụ ánh mặt trời. Toàn bộ khung cảnh đó nhìn qua kính lọc và màn lưới nằm giữa hai gọng kính hiện ra dưới hình dạng giống như cánh dơi, tất cả từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và tuyệt vời khiến tôi cảm thấy bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp nghẹt.”
Đoạn văn trên đẹp như một bài thơ. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng ngôn ngữ rất tài tình để vẽ lên bức tranh cảnh biển buổi sáng mờ sương có đủ đường nét, ánh sáng, sắc màu và cả hình ảnh của con người. Trong màn sương sớm trắng như sữa, phớt chút ánh hồng ấm áp của ban mai, hình ảnh chiếc thuyền từ ngoài xa đang hướng mũi vào bờ đẹp như mơ. Trên mui thuyền, những dáng người ngồi im lặng đầy chất tạo hình. Cận cảnh là tấm lưới vó, viễn cảnh là chiếc thuyền thấp thoáng trong sương. Khung cảnh hài hòa đến độ toàn bích khiến trái tim người nghệ sĩ nhiếp ảnh như thắt lại vì cảm giác sung sướng và hạnh phúc. Đó chính là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận trước Cái Đẹp tuyệt diệu.
Phùng cảm thấy tâm hồn của mình được thanh lọc, trở nên trong trẻo và tinh khôi khi nhìn thấy hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, bồng bềnh giữa trời biển mờ sương, mang đến vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên. Không suy nghĩ nhiều, anh nhanh chóng gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hồng, bấm máy liên tục, thu lại những khoảnh khắc hạnh phúc tột đỉnh của sự khám phá và sáng tạo.
Khi cảm giác ngất ngây và hài lòng do cảnh tuyệt vời mang lại chưa kịp tan đi, Phùng tình cờ chứng kiến một cảnh tượng đau lòng xảy ra trước mắt. Ngay lúc đó, chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ anh đang đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời khỏi thuyền. Họ phải lội qua một vùng bờ nước ngập lên quá đầu gối. Bất giác, Phùng nghe người đàn ông nói với giọng quát lên khi anh leo lên thuyền: “Ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày luôn.”
Hai người hiện ra ở gần, đủ cho Phùng nhận ra từng nét rõ trên khuôn mặt của người đàn bà và vẻ mặt độc ác đáng sợ của người đàn ông. Người đàn bà trên bốn mươi tuổi, với thân hình quen thuộc của phụ nữ vùng biển, cao lớn và có những đường nét thô kệch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau cô. Lưng rộng và cong như lưng chiếc thuyền, mái tóc rối bời. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ, luôn nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ngấm ướt của người đàn bà… Hai người đi qua trước mặt Phùng, họ đến gần chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà dừng lại, nhìn ra ngoài mặt nước phá vỡ ở chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ để gãi hoặc sửa lại mái tóc, nhưng sau đó lại buông thõng xuống và nhìn chăm chú vào chân mình.
Những gì xảy ra trước mắt khiến Phùng không thể tưởng tượng nổi. Bãi cát, nơi chiếc xe rà phá mìn hỏng đã trở thành nơi diễn ra một hành động tàn ác. Khi người đàn bà đứng lại, nhìn ra ngoài mặt nước phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, ngay lập tức người đàn ông trở nên hung hãn, mặt đỏ bừng. Ông ta rút ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa từ trong người, lao tới đánh mạnh vào lưng người đàn bà. Ông đánh liên tục và hít thở hổn hển, với hàm răng cắn chặt. Mỗi lần đánh, ông còn nguyền rủa bằng giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho tôi nhờ. Tất cả mày chết hết đi cho tôi!”
Đáng kỳ lạ là người đàn bà khốn khổ ấy không kêu la, không chống trả, không cố gắng trốn chạy, mà chịu đựng một cách nhẫn nhục. Cảnh tượng đó khiến Phùng kinh ngạc đến mức trong những phút đầu, anh chỉ có thể đứng im mồm hóc mắt. Khi anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất và chạy tới, một cậu bé nhỏ tràn đầy tức giận lao tới và nhắm thẳng vào người đàn ông. Cậu bé, với sức mạnh đáng kinh ngạc, vùng lên cố gắng lấy chiếc thắt lưng, rồi đánh mạnh vào khuôn ngực trần nứt nẻ cháy nắng của người đàn ông. Dù cố gắng, cậu không thể cởi được thắt lưng da, và người đàn ông ngay lập tức đá cậu bé hai cái tát, khiến cậu nhỏ lảo đảo ngã xuống cát. Đứa con đã dũng cảm lao đến bảo vệ mẹ, chặn đứng bàn tay tàn bạo của người cha trong cơn giận dữ điên cuồng.
Khi biết có người lạ chứng kiến cảnh bạo hành vừa xảy ra, người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Tiếng gọi: “Phác, con ơi!” của người đàn bà tội nghiệp vang lên tràn đầy sự tủi nhục và đắng cay. Hình ảnh người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt cậu bé, ôm chầm lấy cậu rồi lại buông ra, chắp tay và vái lạy, sau đó ôm chầm lấy… Điều này thật kỳ lạ và đồng thời rất cảm động. Chị ta khẩn cầu đứa con của mình để đảm bảo rằng nó không bị thương, và đánh cha là một việc phạm tội bất hiếu. Hình ảnh của cậu bé lặng lẽ sờ nhẹ khuôn mặt của người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt ẩn chứa trong những vết rỉ chầm chậm, để lại một ấn tượng khó quên trong tâm trí của Phùng.
Cảnh tượng diễn ra và kết thúc quá nhanh khiến Phùng ngơ ngác nhìn ra bờ phả khi người đàn bà buông đứa trẻ ra và đi nhanh theo lão đàn ông. Cả hai trở lại chiếc thuyền. Điều kỳ lạ là như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất, khiến Phùng bàng hoàng, sững sờ không hiểu vì sao!
Nguyễn Minh Châu đã phản ánh một nghịch lý của cuộc sống: trong khi khung cảnh thiên nhiên đẹp như 1 kiệt tác, thì cảnh tượng đời thường lại tăm tối và đáng buồn.
Lần thứ hai chứng kiến cảnh bạo hành, Phùng chạy tới bảo vệ người đàn bà. Anh bị lão đàn ông đánh và bị thương. Anh được đưa đến trạm y tế của tòa án huyện, và tình cờ anh nghe được người đàn bà bất hạnh kể về gia cảnh của mình. Phùng và Đẩu lắng nghe với lòng cảm thông và thương xót chân thành.
Sau khi các biện pháp giáo dục và răn đe người chồng không mang lại kết quả, Đẩu, với tư cách là chánh án, đã mời người đàn bà đến tòa án để trao đổi vấn đề này. Mặc dù đây là lần thứ hai được mời đến tòa, nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt và lúng túng. Ban đầu, chị ta chỉ dám ngồi ở góc tường, và Đẩu đã mời lần nữa mới rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố gắng thu hút chị. Khi nghe vị chánh án hỏi: “Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?”, người đàn bà ngước lên nhìn và lại cúi mặt xuống đáp nhỏ: “Thưa…”
Chánh án Đẩu nghĩ rằng người đàn bà hiểu ý mình, vì vậy anh có thái độ thân thiện và chân thành hơn: Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên, anh rời khỏi bàn để đứng vịn vào lưng ghế của người đàn bà đang ngồi, giọng nói trở nên giận dữ và khác hẳn với giọng của một vị chánh án: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn, nhưng tôi chỉ muốn nói ngay với chị: Chị không thể sống với cái lão đàn ông vũ phu ấy! Chị nghĩ sao?”
Đẩu khuyên người đàn bà nên ly hôn để thoát khỏi sự hành hạ và ngược đãi của chồng. Có lẽ Đẩu tin rằng giải pháp mà anh đưa ra là đúng, nhưng sau cuộc trò chuyện, mọi lý lẽ của anh ta đều bị người đàn bà khốn khổ phản đối.
Vị chánh án vừa dứt lời, người đàn bà sợ hãi ngước lên nhìn rồi lại cúi mặt xuống. Chị ta chắp tay và vái gọi Đẩu: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó…” Đẩu bất ngờ hỏi: “Sao, sao?” và trông như không hiểu tình huống đau lòng đó. Phùng, sau lời nói của người đàn bà, cảm thấy không khí trong phòng ngủ biển của Đẩu bỗng chốc trở nên ngột ngạt, như bị hút hết đi.
Khi nghe vị chánh án gọi mình bằng chị, người đàn bà đột nhiên chuyển sang gọi bằng bà và nói rõ chủ trương kêu gọi hòa thuận – tức là đồng ý với sự cầu xin của mình. Lúc này, người đàn bà ngơ ngác nhìn Đẩu, sau đó nhìn Phùng. Khi hiểu ra, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự gọi mình là chị và gọi Đẩu, Phùng là các chủ bằng giọng điệu thân mật và chân tình: “Chị cám ơn các chú!… Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chủ đâu có phải là những người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn gian khổ…”
Sau đó, chị ta tâm sự về việc lấy chồng của mình. Thời trẻ, vì không xinh đẹp, chị không được ai để ý tới. Rồi chị gặp anh chàng làm nghề đánh cá, cục tính nhưng rất hiền lành,… tức là lão chồng hung dữ bây giờ.
Chị ta than thở về hoàn cảnh gia đình nghèo nàn, chiếc thuyền lưới vó quá nhỏ hẹp. Chị sinh ra nhiều con quá, không đủ nuôi. Vì thế, chị bị lão đánh bất kể khi nào cảm thấy khốn khổ, giống như những người đàn ông trên thuyền khác uống rượu… Chỉ ước rằng lão uống rượu… thì chị còn đỡ khổ… Khi con cái lớn lên, chị mới có thể cầu xin lão… đưa chị lên bờ để đánh…
Đẩu và Phùng đã lắng nghe chị ta nói về nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền đánh cá không có đàn ông, nhất là những khi biển động. Giọng nói của chị ta như giãi bầy, mong được sự chia sẻ của người nghe: Mong các chứ cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tồi cần phải có người đàn ông đổ chèo chống khi phong ba, đó cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó Ị
Vẻ mặt của người đàn bà bớt sầu não phần nào khi kể rằng trong cuộc sống lam lũ, cực nhọc, đôi khi vẫn có niềm vui. Ấy là khi vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ, vui nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no.
Chứng kiến cảnh người chồng vũ phu đánh đập người vợ một cách tàn nhẫn và nghe lời kể của nạn nhân, Phùng và Đẩu chợt nhận ra nghịch lí thứ hai của tình huống: Người vợ thường xuyên bị chồng đánh đập, ngược đãi; nhưng vẫn nhẫn nhục cam chịu, quyết không bỏ chồng và lại còn bênh vực lão. Người chồng vẫn có trách nhiệm với gia đình nhưng ngày ngày cứ quen thói hành hạ vợ.
Tất cả những điều trên tác động đến Đẩu và Phùng, khiến họ có sự thay đổi trong nhận thức, suy nghĩ và riêng Phùng đã có những phát hiện bất ngờ về quan hệ giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật.
Trong cuốn “Chiếc thuyền”, tình huống truyện tạo nên một vòng tròn đồng tâm, đưa nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu đến những khám phá sâu sắc về bản chất cuộc sống và làm thay đổi nhận thức của họ về nhiều khía cạnh mà trước đây họ chỉ suy nghĩ một chiều hoặc chưa từng nghĩ tới. Ví dụ, sau những điều bất hợp lý, thật ra lại có những điều hợp lý. Việc người đàn bà bị chồng tàn nhẫn hành hạ thường xuyên là không hợp lý, nhưng người đàn bà đó không muốn bỏ chồng lại là điều hợp lý. Vấn đề này ban đầu dường như đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều khía cạnh phức tạp.
Phùng và Đẩu có nghề nghiệp khác nhau, một là nghệ sĩ, một là chánh án, nhưng cả hai đều chứng kiến sự thay đổi nhận thức tương tự và xuất phát từ lòng nhân hậu và mục đích tốt đẹp. Sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, cả hai đều bất ngờ, kinh ngạc và khám phá ra nhiều điều mới: Cuộc sống này đầy tình huống phức tạp mà sách vở chưa đề cập; và còn nhiều góc khuất trong tâm hồn con người mà nghệ thuật chưa khám phá.
Là một chánh án, Đẩu vừa làm phận sự là người đại diện cho pháp luật vừa thực hiện mệnh lệnh của trái tim. Anh muốn giải thoát người đàn bà khỏi những trận đòn tàn bạo của lão chồng bằng lời khuyên li hôn. Anh tin lời khuyên của mình là đúng nhưng anh đã lầm. Ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải quyết dứt điểm được sự bạo hành, là cứu vớt được người đàn bà bất hạnh, nhưng nghe chị ta tâm sự thì anh thấy quan hệ vợ chồng của họ phức tạp hơn nhiều. Từ đó, anh hiểu ra rằng: Muốn giải quyết những vấn đề phức tạp của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, vào pháp luật hoặc lí thuyết sách vở, mà phải thấu hiểu và cần có giải pháp thiết thực. Hóa ra lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Kiến thức sách vở mà anh đã được học trở thành vô nghĩa trước những lí lẽ mộc mạc nhưng sâu sắc của người đàn bà thất học. Sự yên ấm của gia đình và tương lai của những đứa con buộc chị ta phải câm lặng và chịu đựng tất cả. Chị ta chỉ có một nguồn an ủi duy nhất là cuộc sống của mình đâu phải chỉ toàn là những trận đòn tàn bạo của chồng, mà còn có những giây phút hạnh phúc như khi vợ chồng hòa thuận hoặc khi nhìn đàn con được ăn no.
Là người tính xuất ngũ về làm chánh án tòa án huyện vùng biển, Đẩu vẫn giữ nguyên chất lính thẳng thắn, nhiệt tình chống lại cái ác, cái xấu. Phẫn nộ trước sự ngược đãi của người chồng, xót thương người vợ bị bạo hành ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nên anh đã đi ngược với phương châm lấy hòa giải làm đầu trong khi giải quyết các vụ án li hôn mà bảo thẳng với người đàn bà: Chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Anh thực thi luật pháp bằng lí thuyết sách vở và những nguyên tắc đạo đức. Chính vì vậy mà anh đã phán quyết có phần đơn giản trước cảnh ngộ đặc biệt của người đàn bà hàng chài. Đáp lại lòng tốt của anh, người đàn bà đã tế sống anh và năn nỉ xin tòa đừng bắt con bỏ nó. Người đàn bà dân chài thất học nhưng bằng sự từng trải sâu sắc đã khiến một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công phố huyện. Có thể Đẩu bắt đầu hiểu ra rằng muốn giúp con người thoát khỏi cảnh sống đau khổ, tăm tối thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn. Câu chuyện của người đàn bà giúp chúng ta hiểu rõ sự thật về nguyên nhân bi kịch bạo hành trong gia đình, đó là cảnh đói nghèo, bế tắc trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu sâu hơn về đức hi sinh cùng tâm lí của người phụ nữ lao động trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời.
Sau khi chứng kiến cuộc nói chuyện giữa người đàn bà hàng chài và chánh án Đẩu, Phùng bất chợt nhận ra nhiều điều. Cái đẹp của ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống. Ban đầu, Phùng ngây ngất trước vồ đẹp thơ mộng, huyền ảo của chiếc thuyền ngoài xa. Về sau, anh nhận ra rằng cái vẻ đẹp bên ngoài đó đã che giấu thực tế nhức nhối bên trong. Ngược lại, cái xấu cũng có thể lấn át cái đẹp. Tìm hiểu sâu về cảnh người đàn bà hàng chài, Phùng lại thấy thực tế nhức nhối đã làm cho những nét đẹp của con người bị lu mờ. Từ mối quan hệ phức tạp ấy, Phùng suy ngẫm và rút ra nhận xét: Để hiểu được bản chất của đời sống thì người nghệ sĩ không thể nhìn nhận một cách hời hợt, đơn giản, mà phải có cái nhìn đa chiều, tỉnh táo và sâu sắc. Phùng đã phát hiện ra những vẻ đẹp khác ẩn chứa đằng sau những bức ảnh và anh đã bỏ nhiều công sức mới chụp được. Nó không toàn bích như tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa mà phản ánh vẻ đẹp của đời thường đa đoan, đa sự. Người nghệ sĩ đừng bao giờ dùng cái nhìn đơn điệu, một chiều trước cuộc sống vốn phức tạp và bí ẩn. Nghịch lí cuộc đời vẫn luôn là điều thách thức đối với mỗi chúng ta nên đừng vì khao khát Cái Đẹp nghệ thuật mà quên đi hiện thực, bởi nghệ thuật chân chính được khơi nguồn từ cuộc đời và được sáng tạo ra vì cuộc đời. Trước khi là người nghệ sĩ biết rung động trước Cái Đẹp thì hãy là con người biết yêu, ghét, vui, buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động vì những điều tốt đẹp của cuộc sống.
Sự thật trần trụi chứa đựng bên trong Chiếc thuyền ngoài xa chắc chắn đã làm cho cách nhìn, cách nghĩ và cảm quan nghệ thuật của Phùng thay đổi. Bức ảnh thế sự đã được Nguyễn Minh Châu phác họa, được nhà nhiếp ảnh chứng kiến và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về Cái Đẹp nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là giả dối và vô nghĩa trong khi hiện thực cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt.
Phùng bàng hoàng nhận ra sau cảnh đẹp như mơ của chiếc thuyền ngoài xa là bao nhiêu điều ngang trái, xót xa. Tình huống truyện được tạo nên bởi sự tương phản giữa vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa với sự éo le trong gia đình hàng chài. Chính gánh nặng mưu sinh chồng chất trên vai đã biến người chồng thành kẻ vũ phu và khiến người vợ vì thương con, vì sự nghiệt ngã của nghề đi biển, vì hoàn cảnh sống thiếu thốn trên thuyền và nhất là vì sự thấu hiểu người chồng hiền lành nhưng cục tính nên đã nhẫn nhục chịu đựng những hành động tàn bạo của chồng. Nhưng người mẹ ấy không biết là mình đã làm tổn thương tâm hồn những đứa con. Thằng Phác vì thương mẹ, bênh vực mẹ mà thành ra căm ghét chính cha đẻ của mình.
Phùng cay đắng nhận ra bi kịch và cái ác lộng hành trong gia đình thuyền chài kia như thứ thuốc rửa quái đản, làm cho những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình khủng khiếp, ghê sợ. Giống như chiếc thuyền ngoài xa có vẻ đẹp huyền ảo trong sương sớm, khi ra khỏi khoảng cách xa xôi, huyền ảo hoặc phơi mình dưới ánh mặt trời thì sẽ trở nên xấu xí, tầm thường.
Sau khi gặp và nghe người đàn bà bất hạnh nói về chính mình ở tòa án huyện thì Phùng mới vỡ lẽ ra nhiều điều về con người và cuộc sống xung quanh. Anh đã hiểu vì sao người đàn bà ấy cam chịu đến nhẫn nhục, cắn răng chung sống với người đàn ông coi việc đánh vợ như phương thức duy nhất để giải tỏa khổ đau, uất ức. Thì ra, trên thuyền rất cần có một người đàn ông bởi nhiều khi biển động, sóng to gió cả. Vả lại, ông trời sinh ra người đàn bà để đẻ con và nuôi con khôn lớn. Người vợ cần có một người chồng để cùng làm lụng nuôi con. Chị ta hiểu rất đúng rằng chỉ vì đói nghèo, túng quẫn mà chồng mình hóa ra hung bạo. Tình thương con và lòng vị tha khiến chị quên đi nỗi đau triền miên như sóng biển, còn niềm hạnh phúc hiếm hoi như châu ngọc thì chị giữ lấy làm nguồn an ủi: Trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái hòa hợp vui vẻ,… Chị nói thật lòng: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no.
Kết bài.
Kết thúc câu chuyện “Chiếc thuyền”, chúng ta thấy kết quả của hành trình thực tế của Phùng. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” đã được chọn để xuất hiện trong bộ lịch phong cảnh biển và được đánh giá rất cao:
“Các bức ảnh tôi mang về, chỉ một tấm đã được chọn… Không chỉ trong bộ lịch của năm đó, mà mãi mãi sau đó, tấm ảnh chụp của tôi vẫn treo ở nhiều nơi, đặc biệt là trong các gia đình yêu nghệ thuật. Kỳ lạ, dù là ảnh đen trắng, nhưng mỗi lần nhìn kỹ, tôi vẫn thấy màu hồng hồng của ánh sương mai lúc đó tôi nhìn từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, tôi luôn thấy người phụ nữ bước ra từ bức ảnh, một người phụ nữ vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Bà đi bước chậm rãi, bàn chân vững chắc giậm lên mặt đất, hòa lẫn trong đêm đông…”
Đối với Phùng, chuyến đi này có ý nghĩa như một sự khám phá và thức tỉnh: nghệ thuật ẩn hiện ở xa xôi, trong sương mù, trong khi sự thật cuộc đời lại trần trụi và hiện diện ngay trước mắt. Chúng ta thấy chân lý của cuộc sống có thời điểm và địa điểm không phải lúc nào cũng là chân lý nghệ thuật. Điều này được thể hiện qua việc mỗi khi Phùng nhìn và thưởng thức vẻ đẹp của bức ảnh, anh luôn cảm nhận được người phụ nữ đang bước ra từ tấm ảnh.
Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã truyền đạt bài học về cái nhìn đa diện, sự khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với những nghệ sĩ chân chính. Từ tình huống truyện, chúng ta nhận thấy sự khám phá và nhận thức về sự thật cuộc sống qua Phùng và Đẩu, tác giả đã xác định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Ông khẳng định rằng nhiệm vụ của người nghệ sĩ là phát hiện bản chất của cuộc sống. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực. Cuộc sống là một thực tại phức tạp, chúng ta không thể đơn giản và sơ lược khi đánh giá con người và cuộc sống, mà cần có một cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự khám phá và hiểu đúng bản chất của nó.