Thân phận người phụ nữ qua truyện vợ nhặt và Vợ Chồng A Phủ

Đề bài: Từ cuộc đời của các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài). Anh (chị) hãy phát biểu suy nghĩ của mình về thân phận người phụ nữ xưa và nay.

 

 Dàn ý chi tiết về thân phận người phụ nữ xưa và nay 2023

1. Mở bài
Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “vợ nhặt” trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.

2. Thân bài
Số phận bất hạnh
a. Mị
Mị vốn là một cô gái dân tộc Mèo, con nhà nghèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình yêu đã không đến với cô gái nghèo khổ này. Mị mang bi kịch một cô gái với niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát. Chỉ vì món nợ truyền kiếp – ngày trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được nợ nên Mị phải đem thân làm dâu trừ món nợ ấy.Kể từ khi làm dâu cho nhà thống lý,Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương,tủi nhục tăm tối.

Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị là một thứ nô lệ không công. Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người lại bị rẻ rúng như vậy. Bị giam hãm đày đoạ trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống lý, Mị đang chết dần, chết mòn với năm tháng. Thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị gần như tê liệt sức sống. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không hiện tại và không cả tương lai. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi”, “cô ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cuộc đời Mị chỉ còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng không có cả ý thức về cái chết nữa.
b. Người vợ nhặt
Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn, mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “ Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Anh Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân cư ngụ không có khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, không cần phải cưới hỏi gì. Thật tủi nhục thay cho thân phận người “vợ nhặt” – vợ theo không, ngay cả cái tên thị cũng không có. Chỉ với bốn bát bánh đúc người đàn bà nghèo khổ chấp nhận theo người đàn ông chưa từng quen biết. Ngoại hình người vợ nhặt được phác hoạ bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp” trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt “hai con mắt trũng hoáy”. Những chi tiết đó không thể không khiến ta nghĩ đến một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí như một bóng ma vật vờ. Cái đói, cái khổ không chỉ làm thay đổi đi vẻ bề ngoài của con người mà còn làm mất đi cái bản tính hiền hậu, dịu dàng đáng quí vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt” của người đàn ông xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!

Kết: Như vậy, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX đầy ấn tượng và đặc sắc. Đó là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng- thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ.Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
Phẩm chất tốt đẹp
a. Mị (tập trung vào sức sống tiềm tàng)
Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cô “uốn chiếc lá trên môi , thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê , ngày đêm thổi sáo đi theo Mị “. Đấy là dấu hiệu về một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn, biểu hiện của một sức sống trẻ trung, rạo rực … Mị cũng đã từng đựơc yêu và cô cũng đã từng yêu. Điều quan trọng là nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ . Và trong tác phẩm của mình nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy sức sống tìm tàng đó bằng một quá trình phát triển tâm lí, hành động khá sâu sắc và hợp lý. Với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan . Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đoạ đày, đau khổ kia vẫn còn âm ĩ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi.Và điều ấy đã đến, đó là vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Những yếu tố ngoại cảnh đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng dẫn đến sự diễn biến tâm lý nhân vật nó đóng vai trò của nhân tố gợi hứng đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ , một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc , tâm trạng và cuối cùng là hành động . Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say lịm người, cái say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên . “lòng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”.Quá khứ dồn dập trở về rất sống động , rất rõ , thiết tha … nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng :Mị vẫn còn là một con người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi , A sử với Mị không có lòng với nhau nhưng phải ở với nhau …”,

thân phận người phụ nữ
thân phận người phụ nữ

b. Người vợ nhặt (tập trung vào khát vọng sống)

Là một người đàn bà bị cái đói xô đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần hậu của người phụ nữ lao động .Bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ bị chết đói nên có lúc bên ngoài thành ra trâng tráo, trơ trẽn .Nhưng đó không phảỉ là bản chất vốn có của chị phải đến lúc cùng đường , bị rơi vào tình thế phải theo không một nguời đàn ông xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ rõ . Cả đến lúc đã gặp cụ Tứ và đã được chấp nhận, được cảm thông, thương yêu thì trong bóng tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè khép nép. Nhà văn dường như đã hiểu thấu đến tận cùng nỗi lòng của chị và thể hiện được một cách thật tinh tế những gì đang xảy ra trong lòng người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng. Chắc là với, chị con đường âý dài dặt và xa lắm, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách đễ dàng ? Liệu cái hạnh phúc “thử liều nhắm mắt đưa chân “ này có cho chị được một chút ấm áp hay lại còn khốn nạn, cay đắng hơn ? Liệu cái anh chàng xa lạ có vẻ cũng dễ mến này có giúp chị thoát khỏi những cảnh chết đói hãi hùng trước mặt ? Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột trong lòng chị đã phải bật lên thành tiếng , chị đã mấy lần sót ruột hỏi Tràng: “sao lâu thế” “sắp đến chưa” “vẫn chưa đến à?”rồi “nhà có ai không ?”

thân phận người phụ nữ
thân phận người phụ nữ

Đặc biệt là trong bửa ăn của một ngày mới, người nói đến “toàn chuyện vui chuyện sung sướng về sau này “ lại là bà cụ gần đất xa trời, con người nói đến đấu tranh “ phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật duy nhất không có tên trong tác phẩm . Từng đoàn người “ những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp[…]cờ đỏ bay phấp phới” do câu chuyện của chị gợi ra có ĩe cũng là một dụng ý nghệ thuật , nhằm khẳng định khát vọng và sức sống manh mẽ của những con người như chị.
Như vậy, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin yêu và đức hi sinh cao cả đã phát họa nên bức chân dung về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của thân phận người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX.
3. Kết bài
Người phụ nữ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam bức tượng đài bất hủ của những con người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn đi tìm, hướng tới những gì tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc đời. Họ luôn là những mẫu hình lí tưởng về thân phận người phụ nữ Việt Nam thời kì đó, cho hôm nay và cả về sau. Họ luôn trường tồn trong tâm thức người đọc là “Những con người đáng thương nhưng đáng trọng.”

Bài văn mẫu – được hỗ trợ viết bởi Chat GPT

Mở bài

Trong văn học, ở thời đại nào, số phận người phụ nữ cũng là điều khiến những người cầm bút trăn trở nhiều nhất.
Những trang viết về họ bao giờ cũng là những trang viết ám ảnh, để lại trong người đọc nhiều trăn trở hơn cả. Đã qua rất lâu rồi thời của những cô Mị (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài), thời của những người “vợ nhặt”, của bà cụ Tứ (Vợ nhặt- Kim Lân), nhưng câu chuyện về cuộc đời của họ vẫn làm ta khôn nguôi nghĩ về thân phận người phụ nữ xưa và nay.
Từ chị Dâu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố) đến Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao), đến Mị, người “vợ nhặt”, bà cụ Tứ, và cả người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu những năm sau này, văn học đã cho chúng ta chứng kiến bao nỗi cơ khổ, nhọc nhằn của người phụ nữ. Mỗi người một cảnh ngộ riêng nhưng bao phủ lên cuộc đời họ đều là màu đen hắc ám. Đè nén, áp bức, thống trị họ không chỉ là gồng cùm, xiềng xích của chế độ mà có khi là sự tàn bạo của những người chồng. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ mãi mãi yếu thế. Cuộc đời nhiều thăng trầm đã tiếp thêm cho họ sức để kháng mạnh mẽ. Trong nước mắt, tủi hờn, họ vẫn không ngừng hướng về sự sống, về tương lai sáng lạn.

Thân bài

Mị là một cô gái lao động sinh sống ở miền núi, hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp của một thiếu nữ miền quê: xinh đẹp, thông minh, đảm đang, hiếu thảo. Tô Hoài đã tạo nên sự cuốn hút của Mị thông qua những chi tiết nhỏ, và cả những chàng trai trong làng đã bị Mị quyến rũ và cuốn hút. Mị sinh ra trong một gia đình nghèo. Tuy điều này không phải là một điều không may đối với cô, vì Mị yêu đời và tràn đầy nhiệt huyết. Tuy nhiên, cha của Mị không thể kết hôn cho con gái. Mị không có quyền tự do lựa chọn người yêu, không được tìm kiếm tình yêu trong cuộc sống hàng ngày. Mị cảm thấy rất cay đắng khi phải sớm trở thành con dâu và chịu gánh nợ nhà thống lĩnh Pá Tra. Món nợ này đã được truyền từ đời cha mẹ và bây giờ Mị phải trả bằng hạnh phúc của tuổi trẻ. Tiếng nhạc cúng ma buổi sáng ngày Mị bị bắt đã trói chặt cuộc sống của Mị với gia đình thống lĩnh. Nếu Mị đã trở thành con dâu của họ, thì cô cũng sẽ trở thành người hầu trong nhà. Số phận của phụ nữ miền núi đã được quyết định. Không ai có thể chống lại và không ai dám chống lại quyền lực thần thánh. Với tư cách là một người phụ nữ, Mị càng không có quyền tự do, đặc biệt là khi không có cha. Mị trở thành con dâu nhưng thực tế lại trở thành người hầu cho gia đình thống lĩnh. Không ai nghĩ rằng trở thành con dâu của một gia đình giàu có sẽ đẩy Mị vào khốn khổ như vậy. Khi trở thành con dâu nhà Pá Tra, Mị đã hiểu rằng “các cô gái trong nhà này sẽ bị chôn vùi trong công việc suốt cả ngày và đêm”. Mị không được tận hưởng sự sung sướng và thoải mái, không được “ăn sung mặc sướng”. Sự tồn tại của Mị được định rõ bằng những công việc lặp đi lặp lại, vất vả và buồn tẻ: “Sau Tết, Mị lên núi hái thuốc phiện; giữa năm là giặt đay, xe đay; đến mùa là đi nương bẻ bắp. Dù khi đi hái củi, bung ngô hay làm việc gì khác, cô ta đều gắn một bó đay trên cánh tay để tạo thành sợi. Dù là quay sợi, làm đay, làm cỏ ngựa, dệt vải từ củi hay đến đổ nước từ khe suối, cô ta đều cúi mặt, với gương mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài mô tả công việc hàng ngày của con dâu nhà Pá Tra một cách tình cờ, nhưng thực tế là chúng ta được chứng kiến sự đau khổ thật sự. Công việc gian khổ và vất vả của Mị, cùng những nỗi lòng đau khổ và tuyệt vọng sâu thẳm trong tâm hồn, luôn hiện diện trên khuôn mặt cô gái. Nếu không phải vì lòng tham tiền của gia đình thống lĩnh, và việc đày ải con dâu trong nhà, liệu có lẽ những công việc khó khăn và cực nhọc như vậy đã đến tay Mị chăng? Bản chất độc tài và khai thác của quyền lực miền núi không được miêu tả trực tiếp, nhưng nó vẫn hiện diện trong câu chuyện cuộc sống của Mị. Mị cảm thấy rất đau đớn khi nhận ra cuộc sống của mình không có giá trị ngang bằng con trâu, con ngựa.

 

 

Thân phận của Mị khiến tôi không thể không nhớ đến nhân vật “em” trong truyện thơ dân gian Xống chụ xon xao của dân tộc Tày. Dù ở thời đại nào, những cô gái nông dân miền núi đều không thoát khỏi ách chế độ khắc nghiệt và thậm chí tàn bạo của quyền lực và thần quyền trong xã hội mà họ sống. Họ không được tự do lựa chọn người yêu, và một khi bị ép buộc lấy chồng, họ trở thành con trâu ngựa cho gia đình chồng. Sống cùng chồng, nhưng người con gái đó chỉ có thể giữ được phận tôi đòi hèn mọn. Hành động A Sử bắt Mị về làm vợ thực chất là hành động cưỡng bức và chiếm đoạt của chàng trai nhà quan, nhằm thể hiện quyền lực của quyền lực cường đại. Vì vậy, sau khi có Mị, anh ta vẫn tiếp tục săn đuổi những cô gái khác.

Ngày càng sống trong gia đình giàu có, tâm hồn của Mị trở nên héo hon và tàn lụi. Mỗi ngày sống trong nhà thống lĩnh cũng chẳng khác gì sống trong địa ngục trần gian. Áp lực từ chế độ phong kiến và quyền thần miền núi đã khiến Mị dần mất đi khả năng phản kháng, hầu như hoàn toàn tê liệt. Mị không còn khóc như lúc mới về nhà A Sử, cũng không nghĩ đến việc tự tử nữa. “Mỗi ngày Mị cứ im lặng, rút lui như con rùa nuôi trong cái xó cửa”. Mị cảm thấy “chỉ cần ngồi mãi trong cái lỗ vuông ấy và nhìn ra, đến khi nào chết thì thôi”. Cô gái trẻ trung, đam mê cuộc sống và khao khát tình yêu lại phải sống trong sự giam cầm, tù túng, không thể hy vọng vào một tương lai tươi sáng.

Tuy nhiên, im lặng không có nghĩa là chấp nhận và thoả hiệp hoàn toàn. Tiếng sáo gọi người tình và men rượu ngày xuân đã đánh thức trong Mị khát khao sống. Hành động giải thoát A Phủ, mặc dù chưa được lập trường, lại là đỉnh cao của sự tự do bộc phát mạnh mẽ. Khi Mị giải thoát A Phủ, cô cũng đang giải thoát chính bản thân mình. Dù số phận của Mị sẽ điều chỉnh như thế nào, nhưng đã có một bước ngoặt và chắc chắn cuộc sống mới sẽ không u ám như cuộc sống trước đây.

 

Tuy nhiên trong xã hội vẫn có nhiều phụ nữ không làm chủ được bản thân. Họ sa đọa vào những trò vô bổ, những tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, mại dâm… Họ lạm dụng chức quyền của mình để tham tán tài sản của Nhà nước. Bản án cho Lã Thị Kim Oanh cách đây không lâu là bài học cho những người phụ nữ có quá nhiều tham vọng trong cuộc sống- Chính họ đã tự huỷ hoại mình, tự dìm cuộc sống của mình trong đó. Và lúc này, xã hội lại phải vực họ dậy, kéo họ thoát khỏi cảnh sống lầm lạc.

Nếu cuộc đời của cô gái lao động người Mèo trong câu chuyện của Tô Hoài bị áp bức bởi cường quyền và thần quyền miền núi, thì sức ép và đàn áp đối với người phụ nữ vô danh trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân đến từ chế độ thực dân và phát xít. Thế lực thống trị này cao cấp hơn, tinh vi hơn và tàn ác hơn rất nhiều. Mặc dù truyện của Kim Lân không đề cập đến các đế quốc đó, nhưng sự càn quét của nạn đói là bằng chứng rõ ràng nhất về tội ác của chúng. Cái đói khiến “người chết như ngả rạ” và những người sống trở nên “xám xịt như những bóng ma”.

Người “vợ nhặt” trong truyện ngắn được miêu tả với thân hình gầy gò, khuôn mặt “lưỡi cày xám xịt” và “đôi mắt trũng hoáy”. Cuộc sống của cô gái không xinh đẹp này không được đảm bảo bởi bất kỳ tài sản vật chất nào khác. Không có gia đình, không có ngôi nhà, cô sống cùng với sự bất hạnh, ngồi ở cửa kho nhặt những hạt rơi, hoặc chờ đợi khi có công việc gọi đến thì làm. Cuộc sống nghèo khó không chỉ làm cô phụ thuộc mà còn khiến cô mất đi những phẩm chất đáng trân trọng của một người phụ nữ. Sự đói khát khiến cô trở nên mù quáng trước một mẩu thức ăn, không do dự, không ngại ngần để chấp nhận lời mời giao lưu của anh Tràng: “Hãy ăn thật, ăn đi, đừng sợ gì”. Sau lời khuyên này, cô thực hiện hành động “ăn thật” mà không có chuyện trò. Cảnh này đã đủ để Kim Lân đắm chìm trong bi kịch và nhục nhã của cuộc đời người phụ nữ đó.
Thị trở thành người đói nhất trong đám người đói, người đáng thương nhất trong đám người khốn khổ. Tuy nhiên, điều khủng khiếp hơn là Thị đã trở thành người phụ nữ mang thân phận thấp kém nhất khi liều lĩnh chấp nhận theo anh Tràng mà không biết anh ta là ai. Trong truyện “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, nhân vật Đào không có nhan sắc và đã trải qua nhiều rủi ro, nhưng không bao giờ tự hạ thấp mình hay bán rẻ mình. Có thể người “vợ nhặt” là biểu tượng cho sự đáng thương và thê thảm của người phụ nữ dưới sự áp bức của chế độ thực dân và phát xít. Trong nhóm bạn gái ngồi trước cửa nhà kho cùng với Thị, có thể có ai đó đã có cuộc sống tốt hơn Thị.

Khi nói về cuộc đời của người phụ nữ trong truyện ngắn của Kim Lân, không thể không đề cập đến cuộc đời của bà cụ Tứ. Nếu kết hợp hai mảnh đời của hai người phụ nữ khốn khổ trong câu chuyện, chúng ta chỉ có một cuộc đời đau khổ. Người phụ nữ đó đã trải qua những tháng ngày khốn khổ nhất, chịu đựng nỗi đau mất đi hai người thân trong gia đình và đến cuối đời, những giọt nước mắt cuối cùng cũng không thể ngừng rơi khi không thể tổ chức một đám cưới cho con trai. Nỗi đau, thất vọng là những gì đã đi vào lòng người mẹ khốn khổ đó.

Từ “vợ nhặt” đến bà cụ Tứ, chúng ta đã gặp hai thế hệ phụ nữ đáng thương nhất trong xã hội. Họ là những nạn nhân bi thảm của nạn đói khủng khiếp những năm trước Cách mạng. Mỗi người mang trong mình một ước mơ tươi sáng, mỗi người đều cố quên đi cuộc sống hiện thực của mình và cố gắng xây dựng gia đình bé nhỏ, nhưng những cảm giác u ám về cuộc sống tăm tối của họ không bao giờ tắt đi trong chúng ta.

Đọc “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”, chúng ta được chứng kiến cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam hơn nửa thế kỉ trước. Nếu khái quát về thân phận người phụ nữ xưa, chúng ta chỉ có thể nói rằng họ quá mất quyền tự quyết, phụ thuộc và đáng thương. Họ không yếu đuối, nhưng sức kháng cự của họ chưa đủ để chống lại những thế lực thống trị. Hơn nữa, tinh thần đấu tranh của những người này chưa được hỗ trợ bởi sức mạnh của một tập thể, do đó không có tính chất tự giác.

Đất nước đã được giải phóng, không còn đối mặt với sự áp chế từ các thế lực thù địch. Dân tộc đã đạt được độc lập và phụ nữ cũng đã được giải phóng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng đâu đó trong những góc xa xôi của cuộc sống vẫn tồn tại những trường hợp như Mị. Nhiều phụ nữ vẫn bị người chồng bạo hành, nhiều thiếu nữ vẫn bị cha đẻ, cha dượng cưỡng bức, và nhiều cô gái làm công ở nhà thuê vẫn bị chủ nhà bạo hành. Chúng ta có thể tin điều đó khi đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hoặc khi chứng kiến những thước phim mà các phóng viên ghi lại về tấm lưng đầy sẹo của các cô gái làm công ở thuê. Mặc dù chế độ phu quyền đã phai nhạt, nhưng còn tồn tại những tư tưởng hủ bại chưa hoàn toàn biến mất…

Tuy nhiên, tôi tin rằng không còn cô gái nào phải tự hạ thấp bản thân mình chỉ để kiếm miếng ăn, và không còn người mẹ già nào phải rơi lệ khi không thể tổ chức đám cưới cho con trai. Người phụ nữ ngày nay không còn phải chịu áp bức từ bất kỳ chế độ bất công nào. Họ được tự do hoàn toàn, tự do trong tình yêu, tự do trong công việc và tự do trong mọi hoạt động cuộc sống. Cuộc sống của họ do chính họ điều khiển. Họ bình đẳng với nam giới, được tôn trọng trong các ngày kỷ niệm của giới mình. Họ có cơ hội học tập, làm việc và thưởng thức những thành quả lao động mà họ tạo ra. Trên xe buýt, phụ nữ mang bầu được nhường chỗ. Ngày càng có nhiều phụ nữ thành danh trong công việc của mình. Có những nữ nhà văn nổi tiếng như Phạm Tin Hoài, Thuận, Võ Thị Hảo…; có những nữ bác sĩ xuất sắc như Nguyễn Thị Minh Phượng.

thân phận người phụ nữ
thân phận người phụ nữ

Kết bài

 

Một trong những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội ngày nay là tình trạng bạo hành và bắt cóc phụ nữ để buôn bán qua biên giới. Số lượng phụ nữ bị bắt cóc và buôn bán qua biên giới vẫn tiếp tục gia tăng từng năm. Đây là một trong những vấn đề đáng lo ngại trong xã hội hiện đại, ảnh hưởng đến tình hình tinh thần của phụ nữ, đặc biệt là những phụ nữ từ nông thôn di cư vào thành thị để kiếm sống…

Làm thế nào để nửa kia của thế giới luôn sống hạnh phúc và càng ngày càng hạnh phúc hơn? Làm thế nào để tất cả phụ nữ Việt Nam luôn sống trong niềm vui?… Đó là những câu hỏi không chỉ dành riêng cho bất kỳ ai, không chỉ dành riêng cho nam giới mà chính những phụ nữ cũng phải tìm câu trả lời cho chúng.

Người phụ nữ đã đem đến cho văn học Việt Nam những hình ảnh không thể phai mờ của những con người kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước khó khăn, luôn tìm kiếm và theo đuổi những giá trị tốt đẹp, sự sáng lạn trong cuộc sống. Họ trở thành biểu tượng bất diệt về thân phận người phụ nữ Việt Nam trong thời gian đó, hiện tại và tương lai. Họ mãi tồn tại trong tâm trí của người đọc như những “nhân vật đáng thương nhưng đáng quý”.

Leave a Reply

%d bloggers like this: