Sóng – Phân tích vẻ đẹp hình tượng sóng và em

Dưới đây tomtat.net đã tổng hợp các mẫu dàn ý và một số bài văn phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống, hiện đại của hình ảnh “Sóng” và em trong tác phẩm Sóng – Xuân Quỳnh. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm nhiều bài văn hay khác tại https://tomtat.net/category/tom-tat-van-hoc/. Chúc các bạn đạt được kết quả cao trong học tập.

Dàn ý phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống, hiện đại của “Sóng” và em

 

Dàn ý Phân tích – mẫu 1

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng”.
  • Bài thơ “Sóng” là những trạng thái, cung bậc cảm xúc đầy sinh động của tâm hồn người con gái khi yêu. Đặc sắc của bài thơ là sự kết hợp giữa nét đẹp hiện đại và nét đẹp truyền thống để làm nên nội tâm, tình cảm đầy phong phú của người con gái.

II. Thân bài
1. Vẻ đẹp truyền thống

  • “Sóng” thể hiện được tình yêu mang nét đẹp truyền thống.
  • Khi yêu “em” cũng mang trong mình nỗi nhớ da diết, nỗi bồi hồi khắc khoải đối với người mình yêu.
  • Ta có thể gặp quan niệm của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có điểm gặp gỡ với nỗi nhớ trong những bài ca dao, dân ca xưa.Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh lại da diết, khắc khoải đến mức vượt qua mọi giới hạn về không gian gian, thời gian, trong thế giới của ý thức và cả sự vô thức.
  • Trong tình yêu, “em” cũng luôn giữ gìn được tấm lòng thủy chung son sắc.

2. Vẻ đẹp hiện đại

  • “Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu đầy tính mới mẻ, hiện đại.
  • Tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy sinh động những trạng thái tình cảm mang tính đối lập, mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái.
  • Mượn hình ảnh của sóng, nữ sĩ đã gợi ra những trạng thái đối cực trong tâm trạng người con gái.
  • Sóng ngoài đại dương có lúc ồn ào, dữ dội khi phong ba bão táp nhưng cũng có lúc dịu êm, lặng lẽ khi trời yên biển lặng thì tâm trạng người con gái khi yêu cũng vậy, sẽ có những lúc nồng nhiệt đắm say nhưng cũng có khi trầm lắng, dịu dàng.
  • Cái mới mẻ, hiện đại trong hồn thơ Xuân Quỳnh được thể hiện trong bài thơ đó chính là cái táo bạo, khát vọng hướng đến tình yêu, chủ động tìm kiếm tình yêu của cuộc đời mình.
  • “Em” trong sóng thể hiện một tâm hồn đầy sôi nổi, có sự chủ động và khát vọng sống hết mình cho tình yêu.
  • Mong muốn được hòa nhập trọn vẹn tình yêu nhỏ của bản thân để tạo nên tình yêu bất diệt, vĩnh cửu của cuộc đời.
  • Nữ sĩ đã có niềm tin bất diệt vào tình yêu, từ đó bày tỏ khát vọng thành thực của bản thân là được dâng hiến, sống hết mình cho tình yêu.

III. Kết bài

  • Qua bài thơ “Sóng” người đọc vừa cảm nhận được những nét mới mẻ, hiện đại vừa thấy được những quan niệm truyền thống về tình yêu.
  • Chính sự kết hợp đặc sắc này đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho bài thơ Sóng trong trái tim của những người đang yêu.

Dàn ý Phân tích – mẫu 2

I. Mở bài
– Xuân Quỳnh là một nữ sĩ tài ba, nhạy cảm, luôn khát khao hạnh phúc đời thường, thơ chị luôn dạt dào tình cả, lòng trắc ẩn nhân hậu của một trái tim nữ tính.
– Bài thơ Sóng là một trong những bài tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
– Nổi bật rong bài thơ là hai hình tượng “sóng” và “em”, đây là hai hình tượng có tính chất song hành, lúc tách đôi nhưng lúc lại hòa nhập.
II. Thân bài
1. Bản tính và khát vọng của “sóng” và “em” (khổ 1, 2)
– Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Ẩn sâu hình ảnh song là hình ảnh “em”, bản tính của sóng chính là tính khí của “em” trong tình yêu.
– Con sóng không chấp nhận không gian “sông” chật hẹp, “không hiểu” nổi sóng nên quyết liệt “tìm ra tận bể” khoáng đạt, để là chính mình. “Em” cũng vậy, cũng khát khao tìm được tình yêu để được yêu thương và thấu hiểu, được là chính mình.
– Bản chất của sóng từ “ngày xưa” đến “ngày sau” vẫn không hề thay đổi (vừa dữ dội vừa dịu êm … luôn muốn tìm ra biển lớn). Đó cũng chính là khát vọng muôn đời của “em”: được sống trong tình yêu bằng cả tuổi trẻ.
2. Những nỗi niềm của “em” về “sóng”, về tình yêu (khổ 3, 4)
– Đối diện với “muôn trùng sóng bể”, “em” đã có những suy tư, khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu, “biển lớn” tình yêu.
– “Em” băn khoăn về khởi nguồn của “sóng” rồi tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên, nhưng rồi tự nhận thấy rằng khởi nguồn của sóng, thời đểm bắt đầu tình yêu thật bí ẩn. (Liên hệ câu thơ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu …” trong bài Vì sao của Xuân Diệu).
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của “sóng” và “em”(khổ 5, 6, 7)
– “Sóng” nhớ đến bờ: nỗi nhớ bao trùm không gian (dưới lòng sâu – trên mặt nước), dằng dặc theo thời gian (ngày – đêm), nhớ đến “không ngủ được”.
– “Sóng nhớ bờ” chính là “em” nhớ “anh”, nỗi nhớ của “em” cũng bao trùm không gian, thời gian, thậm chí thường trực trong tiềm thức, trong suy nghĩ “cả trong mơ còn thức” (liên hệ nỗi nhớ trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh).
– Dù “xuôi về phương bắc” hay “ngược về phương nam”, trải qua sóng gió cuộc đời thì lòng “em” vẫn luôn hướng về “phương anh”. Đó là phẩm chất thủy chung son sắt của “em” trong tình yêu.
– Con sóng cũng táo bạo, chủ động và thủy chung như “em”, dù trôi dạt phương nào thì đích đến cuối cùng vẫn là bờ.
4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu của “em”(khổ 8, 9)
– “Em” luôn trăn trở, lo âu, bất an về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.
– Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng … bay về xa.”
– Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn bởi vậy “em” khát khao được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.
– Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.
III. Kết bài
– Nêu cảm nhận về hai hình tượng:“sóng” được khám phá dựa trên sự tương đồng, hòa hợp với “em”.Hình tượng “em” vừa mang nét truyền thống (thủy chung, dịu dàng) lại vừa mang nét hiện đại (chủ động tìm tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo).
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …
– Bài thơ đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ: thiết tha, nồng nàn, thủy chung. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, hạnh phúc lớn lao của con người.

Dàn ý Phân tích – mẫu 3

I. Mở bài.
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu.
II. Thân bài
a. Giải thích: Vẻ đẹp truyền thống là gì? Vẻ đẹp hiện đại là gì? Biểu hiện trong bài thơ “Sóng”.
– Vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ trong tình yêu trong bài thơ “Sóng”: Thể hiện ở lời giải bày kín đáo, ý nhị và lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ trong tình yêu.
– Vẻ đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu trong bài thơ “Sóng”: Sự chủ động táo bạo của người phụ nữ trong tình yêu với những khát khao yêu đương mãnh liệt, những rung động rạo rực cảm xúc trong lòng, tin vào sức mạnh của tình yêu.
b. Cảm nhận (Sử dụng chủ yếu thao tác phân tích, chứng minh)
– Về vẻ đẹp hiện đại. Học sinh cần làm nổi bật một số ý sau:

  • Trước hết, đó là sự chủ động hết sức táo bạo, dứt khoát từ bỏ không gian tù túng tìm đến không gian rộng lớn để tìm thấy mình, hiểu mình và được là mình:
  • Thứ hai, đó là sự khao khát khám phá và nhận thức tình yêu đầy chủ động, thể hiện cảm xúc mãnh liệt. Từ sự suy tư về nơi bắt nguồn của sóng: “Từ nơi nào sóng lên ?” đến sự băn khoăn, khao khát cắt nghĩa để hiểu rõ tình yêu “Khi nào ta yêu nhau?”. Dù biết rằng khao khát lý giải, cắt nghĩa rõ ràng, cặn kẽ nơi khởi thủy của tình yêu là không thể. Nhưng hơn cả, qua đó nhân vật trữ tình (qua hình tượng “sóng” và “em”) để bộc lộ những cảm xúc mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.
  • Thứ ba, chủ động trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Chủ động thể hiện nỗi nhớ dâng trào mãnh liệt: “Ôi con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được/Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”. Và chủ động tìm kiếm tình yêu: “Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam/Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh – một phương”.
  • Thứ tư, đó là khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu, cho cuộc đời để tình yêu trở nên bất tử. (Khổ thơ cuối). Người con gái dám sống hết mình cho tình yêu, hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu rộng lớn của cuộc đời.

– Về vẻ đẹp truyền thống. Học sinh cần làm nổi bật một số ý sau:

  • Bằng một cách kín đáo và ý nhị nhất, Xuân Quỳnh mượn hình tượng “sóng” trong tự nhiên để diễn tả thành công những cung bậc cảm xúc, những quy luật tình cảm muôn đời của con người trong tình yêu:
  • Đó là trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong lòng người đang yêu: “Dữ dội và dịu êm/Ồn ào và lặng lẽ”.
  • Đó là khát vọng tình yêu mãnh liệt, nỗi nhớ da diết và là lòng thủy chung son sắt qua khổ thơ 5,6.
  • Đó là sự thủy chung và niềm tin mãnh liệt vào tình yêu; nhạy cảm, day dứt, âu lo trước những biến suy, phai bạc của cuộc đời. (khổ thơ cuối).

c. Đánh giá chung:
– Về nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo.

  • Sóng in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh được xây dựng bằng phương thức ẩn dụ để trở nên đa nghĩa. Thơ ca truyền thống mượn sóng để diễn tả tình yêu nhưng sóng và nhân vật trữ tình tách bạch; còn ở Xuân Quỳnh sóng và em vừa song song vừa cộng hưởng.
  • Để đặc tả nhịp điệu, sự hồi hoàn vô hồi, vô hạn của những con sóng và thể hiện tinh tế trạng thái cảm xúc trong tâm hồn người con gái đang yêu, Xuân Quỳnh đã: sử dụng thành công thể thơ ngũ ngôn, lối thơ vắt dòng với những câu thơ không có dấu chấm câu; ngôn ngữ giản dị, sử dụng hiệu quả các từ láy và biện pháp tu từ; nhịp điệu và cách ngắt nhịp thay đổi linh hoạt; hòa phối thanh bằng – trắc sáng tạo.

– Về nội dung: Mỗi vẻ đẹp (truyền thống hay hiện đại) của người phụ nữ trong tình yêu đều có những nét đẹp rất riêng nhưng lại cùng hòa quyện vào nhau: Tiếp nối, giữ gìn nét đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông, nhưng đồng thời cũng vươn đến hoàn thiện ở sự chủ động đầy táo bạo của người phụ nữ hiện đại trong tình yêu trên con đường tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho bản thân.
d. Bản thân em ấn tượng với vẻ đẹp nào?
Học sinh có thể chọn vẻ đẹp truyền thống hoặc vẻ đẹp hiện đại hoặc cả hai vẻ đẹp miễn là lý giải thuyết phục. Sau đây là một số gợi ý:
– Ấn tượng với vẻ đẹp hiện đại. Không như người phụ nữ xưa trong tình yêu, người con gái trong tình yêu qua bài thơ Sóng đã chủ động hơn, khát khao hạnh phúc chính đáng của mỗi con người.
– Ấn tượng với vẻ đẹp truyền thống. Tuy mang nét hiện đại với sự chủ động đến táo bạo và đầy mạnh mẽ nhưng đồng thời thấy những gì tinh tế, kín đáo nhất của một tâm hồn phụ nữ, một trái tim nhạy cảm luôn khao khát yêu thương. Nổi bật trong bài thơ là tâm trạng của người con gái Việt Nam với nét đẹp phương Đông khi yêu: dịu dàng, thủ thỉ, đằm thắm mà không kém phần sôi nổi, mãnh liệt. Nét đẹp ấy được thể hiện bằng một hình thức tưởng như cũ mà lại mới. (Nguyễn Xuân Lạc).
III. Kết bài
– Khái quát lại vấn đề.
– Có thể liên hệ bản thân, cuộc sống: Tình yêu trong cuộc sống ngày nay. Các em cần gìn giữ, phát huy cái đẹp nào? Những điều không tốt nào trong tình yêu nên tránh? Suy cho cùng tình yêu xuất phát từ sự chân thành thì sẽ đẹp và trọn vẹn.

Các bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống, hiện đại của “Sóng” và em

Phân tích “Sóng” – mẫu 1

“Sóng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng tình yêu với những cung bậc tình cảm phong phú và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, hồn nhiên chân thật, say đắm nồng nàn, đôn hậu, thủy chung. Tình yêu trong “Sóng” vừa mang tính chất tế nhị, kín đáo của truyền thống vừa rất sôi nổi, mãnh liệt hết sức hiện đại.
“Tình yêu mang tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời” là tình yêu gắn liền với những đặc điểm cảm xúc, tình cảm có tính quy luật. Đó là quy luật tình cảm thường gặp trong tình yêu của lứa đôi như nhớ nhung, giận hờn, khao khát. Tình yêu “hiện đại” là tình yêu đề cao cái tôi cá nhân, đề cao những cảm xúc, khao khát mãnh liệt vượt qua những giới hạn. Đó là cá tính mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi bứt phá những nhỏ hẹp đời thường để đến với tình yêu rộng lớn bao la. Hiện đại ở đây gắn liền với quan niệm tình yêu tự do chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.
Trước hết, “Sóng” thể hiện một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”:
Tình yêu ấy có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất nữ tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng nhưng cũng là những cảm xúc nội tâm đầy phức tạp, mâu thuẫn nhưng cũng rất thống nhất hài hòa trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là sóng, khiên sóng luôn dạt dào, không bao giờ đứng yên. Phép nhân hóa “Sóng tìm ra tận bể” gợi liên tưởng sóng như có ý thức, có khát vọng tìm đến cái rộng lớn, bao la. Những đặc điểm này của sóng đã có “từ ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, cách nói khẳng định, nhấn mạnh, đây là bản chất muôn đời của sóng.
Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái. Khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn.
Trái tim người con gái khi yêu cũng tự nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình, khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp cô đơn của cái tôi cá nhân, tìm đến sự rộng lớn bao la của tình yêu thương giống như hành trình của sóng từ sông ra bể. Hình ảnh ẩn dụ này cũng gợi đến những khát khao, suy tư, trăn trở trong trái tim xôn xao, rạo rực tình yêu của người con gái.
Tình yêu truyền thống không thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy chung. Nếu thủy chung là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ lại là sức sống của tình yêu:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Khổ thơ trùng điệp hình ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng nàn với nhiều cung bậc. Có khi, mặt biển lớn lao như biển cả, có lúc lại da diết, triền miên với thời gian, ngày đêm không ngủ được, lại có lúc trải rộng thiết tha với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khoải như con sóng nổi trên mặt nước. Và đôi khi, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quắt trong lòng như con sóng ngầm dưới biển sâu.
Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình yêu đã lấp đầy con tim, khối óc, trở thành lẽ sống, trở thành khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và “nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” xuất hiện giữa dòng thơ như một tiếng lòng rung rung giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được diễn tả trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên, hồn nhiên, say đắm nhưng dường như vẫn chưa đủ mà còn được thể hiện trực tiếp qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ bốn dòng, nỗi nhớ lại được diễn tả bằng khổ thơ sáu dòng, đã phơi lộ cái tôi riêng của người nữ sĩ – một nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu. Nó nồng nàn, đằm thắm hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ tồn tại trong ý thức, mà dường như còn len lỏi vào trong tiềm thức, xâm nhập cả vào trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.
Nỗi nhớ ấy tạo độ bền cho lòng chung thủy:

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều “phương bắc phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù thiên nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” nhưng nơi nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng tình yêu thủy chung, duy nhất. Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng triền miên dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi đến nhịp của sóng. Nhưng rõ nhất, sôi nổi nhất, mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này.
Trong tình yêu, người phụ nữ luôn giữ một trái tim tràn đầy niềm tin. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa vô cùng, gặp muôn ngàn bão tố nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở” thì cuối cùng em tin tình yêu của chúng ta sẽ đến được cùng nhau.
Không chỉ mang nét đẹp truyền thống, ta còn cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn đầy hiện đại. Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình. Ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Tình yêu hiện đại chính là khao khát tự lý giải bản thân và khao khát được dâng hiến và hy sinh.
Trong tình yêu, để hiểu được mình thì thật khó khăn bởi tình yêu là một trạng thái tâm lý khác thường, đầy bí ẩn và huyền diệu, nó có những lý lẽ riêng của con tim mà lý trí thông thường không thể lý giải được:

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Điệp ngữ “em nghĩ” diễn tả sự thao thức suy tư của người con gái trước câu hỏi cội nguồn của sóng cũng như câu hỏi cội nguồn của tình yêu. Đó là câu hỏi của muôn đời và muôn người nhưng chưa bao giờ có lời đáp trọn vẹn.
Bởi tình yêu là một tình cảm đẹp rất thật nhưng khó nói nên lời, cảm thấy rất rõ nhưng không dễ nắm bắt. Câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” không phải không giải thích được nhưng “em cũng không biết nữa” lại là cái lắc đầu nhỏ nhẹ, dễ thương, đầy nữ tính trước những cung bậc huyền bí của tình yêu. Xuân Quỳnh đã nắm bắt được một trạng thái tâm hồn rất chân thật, có tính chung cho mọi lứa đôi và biểu hiện nó thật duyên dáng. Tình yêu cũng như gió trời, sóng bể, cũng tự nhiên, hồn nhiên, bất ngờ và khó hiểu như thiên nhiên. Có thể nói, đây là cách phát hiện tình yêu rất nữ tính, trực cảm, kiểu Xuân Quỳnh.
Trước Xuân Quỳnh, có lẽ chưa người phụ nữ nào nói về tình yêu bằng những lời thiết tha, nồng nàn cháy bóng như thế. Những khát vọng yêu đương của người con gái trong thơ được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ, cũng như “em” mong gặp được “anh”. Tình yêu của người con gái ở đây trong sáng, mãnh liệt, thiết tha, giản dị, thủy chung, một tình yêu hết mình và quên mình. Đó là điều rất mới mẻ cả trong đời lẫn trong thơ thời ấy. Khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ da diết khi còn trẻ, mà cả sau này, khi đã nếm trải nỗi đau, thất vọng trong tình yêu thì khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn thiết tha, giàu yêu thương.
“Sóng” với Xuân Quỳnh không chỉ là biểu tượng của khát vọng tình yêu mà còn là phương tiện để bà bộc lộ những suy tư về cuộc sống, tình cảm:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

“Sóng vỗ bờ” là một chân lý tất yêu không gì thay đổi. Trên đại dương mênh mông có biết bao nhiêu con sóng và biết bao nhiêu trắc trở nhưng trăm ngàn con sóng vẫn tới bờ. Thế mà:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Cuộc đời tuy dài nhưng không phải vô cùng, như biển lớn mênh mông nhưng không phải vô tận. Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, ý thức về thời gian gắn với nỗi âu lo, dù vậy, nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo nhưng không mấy thất vọng, mà chỉ khao khát nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại, sống hết mình, mãnh liệt với tình yêu để vượt qua và chiến thắng sự hữu hạn của thời gian và đời người:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Tan ra để hòa vào biển lớn của tình yêu, biển lớn của hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của mình. Ước muốn ấy của bà vừa dịu dàng, đôn hậu, vừa nồng nàn thiết tha. Bài thơ khép lại nhưng hai cặp hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài vào nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.
Với thể thơ năm chữ linh hoạt, bài thơ có khả năng gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái nhịp nhàng của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm xúc. Xuân Quỳnh đã rất tài hoa trong việc ngắt nhịp, phối âm bằng trắc như những nhịp sóng khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội và nó cũng gợi đến những sự khắc khoải của sóng lòng. Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh sáng tạo hòa trộn thanh âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, hờn giận đan xen nối tiếp trong cõi lòng của người con gái khi yêu cũng tạo nên một yếu tố nhạc tính của thơ.
Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. “Sóng” ở đây là những khát vọng tình yêu của “em” – của người con gái với những cảm xúc tình cảm phong phú, phức tạp.

Phân tích “Sóng” – mẫu 2

Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương. Như mọi người đều biết, là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hàng ngày, trân trọng, nâng niu và chi chút cho hạnh phúc bình dị của đời thường.
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những người xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu, viết nhiều, viết hay về tình yêu, trong đó Sóng là một bài thơ đặc sắc. Đến Xuân Quỳnh, thơ Việt Nam hiện đại mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu vừa hồn nhiên, chân thật, vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim người phụ nữ.
Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều nhà thơ nỗi tiếng đã viết về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt, in đậm dấu ấn tâm hồn, tư tưởng vả phong cách nghệ thuật của mình. Xuân Diệu trước đó đã mượn hình tượng biển để nói về tình yêu, còn Xuân Quỳnh, chị đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.
Cùng với hình tượng “sóng”, bài thơ này còn có một hình tượng nữa là “em” – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình – một kiểu đặc biệt của cái tôi trữ tình nhập vai. Hai “nhân vật” trữ tình này (sóng và em) tuy hai mà một, có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài quấn quýt với nhau như hình với bóng, song song tồn tại từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nữ thi sĩ.
Hình tượng “sóng” là một tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Hình tượng song trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp triền miên vô hồi vô hạn. thể thơ năm chữ không ngắt nhịp lên tiếp đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi lúc sâu lắng chạy dài suốt bài thơ. Song âm điệu chung của cả bài thơ không phải chỉ là âm điệu nguyên con sóng. Nó còn là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập khao khát tình yêu vô hạn đang rung lên đồng điệu hòa hợp với sóng biển., hòa hợp tới nỗi không còn biết đâu là đâu là nhịp điệu của sóng biển đâu là nhịp điệu của thi sĩ nữa. Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện nhịp điệu tâm hồn mình đang bùng cháy một tình yêu mãnh liệt, không chịu yên điịnh mà đầy biến động, khao khát. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động những trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trải tim của người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.
Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lí đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tinh khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”… Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêụ không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu nồi mình, Sóng tìm ra tận bể” Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên nàv môt nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu ” song không hiểu nổi mình” thì sóng nhất quyết từ bỏ nơi chật hẹp ấy để ” tìm ra tận bể” đến với cái cao rộng bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt.
Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người trong quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Nó cũng như sóng, mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu. Con người, tình yêu bao giờ cũng là một khát vọng bồi hồi:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Khi tình yêu đến như một tâm lí tự nhiên và thường tình người ta luôn có nhu cầu tự tìm hiểu và phân tích. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường , đầy bí ẩn không thể giải thích bằng lí lẽ thong thường., làm sao có thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu. Cái điềm mà trước đó từng làm Xuân Diệu băn khoăn”Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” thì nay,một lần nữa lại được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao mà lí giải được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên, và cũng khó hiểu không ngờ như thiên nhiên:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tình yêu cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi thức, cả khi ngủ, bao trum lên cả không gian va thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thi nao yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô han. Nhip thơ trong suốt bài thơ này là nhip sóng, nhưng rõ nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức nhất, mãnh liệt nhất là ở đoan thơ này:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Và, như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng với lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rao rực yêu thương. Nỗi nhớ được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ “ngày đêm không ngủ được” vẫn chưa đủ, chưa thỏa, lai được thể hiện một lần nữa qua nỗi nhớ trực tiếp của nhà thơ: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của nữ thi sĩ. Nỗi nhớ thường trực trong mọi không gian va thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi trong tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Nhưng đòi hỏi, khao khát yêu đương của ngưởi con gai được bộc lộ thật mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị song chỉ khao khát tới bờ cũng như em khao khát có anh! Tình yêu của người con gái thiết tha, mãnh liệt, trong sáng, giản di, thủy chung, duy nhất. Qua hình tượng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bao, không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình – một phu nu, một điều thật hiếm thấy trong văn học Việt Nam.
Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà chị đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn nhiên tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hi vọng, vẫn có một niềm tin vào hanh phúc trong tương lai. Vừa tự động viên, an ủi mình, chị vừa tin vào cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như” con sóng nhất định sẽ tới bờ”, “dù muôn vàn cách trở. Vì thế, ý thức về thời gian chưa làm cho chị lo âu mà chỉ làm cho chị thêm tin rằng:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi đã nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu thương của chị.

Phân tích “Sóng” – mẫu 3

“Sóng” là bài thơ tình đặc sắc bậc nhất của Xuân Quỳnh được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là những trạng thái, cung bậc cảm xúc đầy sinh động của tâm hồn người con gái khi yêu. Đặc sắc của bài thơ là sự kết hợp giữa nét đẹp hiện đại và nét đẹp truyền thống để làm nên nội tâm, tình cảm đầy phong phú của người con gái.
Nhận xét về bài thơ “Sóng”, có ý kiến cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ, hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”, cũng có ý kiến khác cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm tình yêu mang tính truyền thống”. Hai nhận định mang tính trái ngược nhưng thực chất chúng hoàn toàn thống nhất để tạo nên nét đặc sắc nhất của bài thơ.
“Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu đầy tính mới mẻ, hiện đại. Trong bài thơ này, tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy sinh động những trạng thái tình cảm mang tính đối lập, mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Mượn hình ảnh của sóng, nữ sĩ đã gợi ra những trạng thái đối cực trong tâm trạng người con gái. Cũng giống như sóng ngoài đại dương có lúc ồn ào, dữ dội khi phong ba bão táp nhưng cũng có lúc dịu êm, lặng lẽ khi trời yên biển lặng thì tâm trạng người con gái khi yêu cũng vậy, sẽ có những lúc nồng nhiệt đắm say nhưng cũng có khi trầm lắng, dịu dàng. Tình yêu có thể tạo ra bao cung bậc cảm xúc phức tạp, đúng như câu nói “Tình yêu luôn có những quy luật mà lý trí không thể lý giải được”.
Cái mới mẻ, hiện đại trong hồn thơ Xuân Quỳnh được thể hiện trong bài thơ đó chính là cái táo bạo, khát vọng hướng đến tình yêu, chủ động tìm kiếm tình yêu của cuộc đời mình:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

“Em” trong sóng thể hiện một tâm hồn đầy sôi nổi, có sự chủ động và khát vọng sống hết mình cho tình yêu, đó là khi người con gái ấy mong muốn được hòa nhập trọn vẹn tình yêu nhỏ của bản thân để tạo nên tình yêu bất diệt, vĩnh cửu của cuộc đời:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở”

Nữ sĩ đã có niềm tin bất diệt vào tình yêu, từ đó bày tỏ khát vọng thành thực của bản thân là được dâng hiến, sống hết mình cho tình yêu. Khát vọng ấy lớn lao đến mức “em” muốn tan ra thành trăm con sóng nhỏ để luôn rì rào vỗ sóng trong bể lớn tình yêu của muôn đời.
Bên cạnh một cái tôi đầy mới mẻ, hiện đại trong tình yêu thì “sóng” còn thể hiện được tình yêu đầy truyền thống:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Cũng giống như bao người phụ nữ xưa, khi yêu “em” cũng mang trong mình nỗi nhớ da diết, nỗi bồi hồi khắc khoải đối với người mình yêu. Ta có thể gặp quan niệm của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có điểm gặp gỡ với nỗi nhớ trong những bài ca dao, dân ca xưa.
Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh lại da diết, khắc khoải đến mức vượt qua mọi giới hạn về không gian gian, thời gian, trong thế giới của ý thức và cả sự vô thức. Nỗi nhớ nhung da diết của “em” hướng đến anh không chỉ thường trực khi còn thức mà còn khắc khoải cả khi đã chìm vào trong giấc mơ.
Sự thủy chung, son sắc của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh cũng được thể hiện trong suy nghĩ luôn hướng về phía anh, nơi con tim của “em” được trao gửi:

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

Tình yêu sẽ phải trải qua bao gian nan, thử thách mới có thể đi đến bến bờ cuối cùng của hạnh phúc. Tuy nhiên những trắc trở, vô thường của cuộc đời cũng không thể ngăn cản trái tim của người con gái hướng về người mình yêu. Sức mạnh của tình yêu đã giúp em vượt qua tất cả để đến bên anh như một quy luật của tình cảm:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở”

Như vậy, qua bài thơ “Sóng” người đọc vừa cảm nhận được những nét mới mẻ, hiện đại vừa thấy được những quan niệm truyền thống về tình yêu. Chính sự kết hợp đặc sắc này đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho bài thơ Sóng trong trái tim của những người đang yêu.

Phân tích “Sóng” – mẫu 4

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó Xuân Quỳnh mới hai mươi lăm tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thuỷ, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
Quan niệm mới mẻ, hiện đại là quan niệm ngày nay, quan niệm của những người có đời sống văn hóa, tinh thần không bị ràng buộc bởi ý thức hệ tư tưởng phong kiến. Về tình yêu, sự mới mẻ, hiện đại thể hiện ở: chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt, khát vọng mạnh mẽ táo bạo về những rung động rạo rực cảm xúc trong lòng, tin vào sức mạnh của tình yêu. Quan niệm truyền thống là quan niệm có từ xa xưa, được bảo tồn trong đời sống hiện đại. Trong tình yêu, nó được thể hiện ở những nét đẹp truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, thủy chung…
Đó là một tình yêu với nhiều cung bậc phong phú, đa dạng: dữ dội, ồn ào, dịu êm, lặng lẽ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Hay còn là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hình ảnh so sánh cho thấy, người con gái ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi tình yêu mà chủ động, khao khát kiếm tìm một tình yêu mãnh liệt. Người con gái dám sống hết mình cho tình yêu, hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu rộng lớn của cuộc đời:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Dù vậy, thì tình yêu trong “Sóng” vẫn chứa đựng những nét đẹp truyền thống. Nỗi nhớ thương trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng và em:

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ thường trực, da diết, mãnh liệt suốt đêm ngày. Tình yêu gắn liền với sự chung thủy:

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

Với em không chỉ có phương Bắc, phương Nam mà còn có cả “phương anh”. Đó là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư. Tình yêu gắn với khát vọng về một mái ấm gia đình hạnh phúc: Cũng như sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, người phụ nữ trên hành trình đi tìm hạnh phúc cho dù lắm chông gai nhưng vẫn tin tưởng sẽ cập bến.
Tóm lại, “Sóng” chính là sự kết hợp giữa vẻ đẹp truyền thống và hiện đại trong tình yêu.

Phân tích “Sóng” – mẫu 5

Xuân Quỳnh là một nữ sĩ đa tài, là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Xuân Quỳnh mang trong mình một hồn thơ vừa trong sáng, hồn nhiên, vừa trực cảm, giàu suy tư mà lại không kém phần mãnh liệt, táo bạo. Bài thơ “Sóng” của nữ sĩ được mệnh danh là “một bài thơ tình vượt thời đại”, điển hình cho hồn thơ của Xuân Quỳnh. Sức sống của thi phẩm một phần là nhờ vào sự sáng tạo thành công hai hình tượng “sóng” và “em”, vừa song hành, vừa tách biệt cất lên tiếng nói mãnh liệt của tình yêu.
Xuân Quỳnh không phải là người đầu tiên, cũng chẳng phải người duy nhất lấy hình tượng “sóng” để nói về tình yêu, song “sóng” của Xuân Quỳnh lại mang một tiếng nói rất riêng, tiếng nói của tâm hồn một cô gái trẻ, nhiệt huyết và khao khát tình yêu đích thực.
“Sóng” và “em” đều gắn liền những quy luật. Mượn quy luật của sóng trong tự nhiên, nhà thơ đã khái quát lên những quy luật tình yêu của người con gái:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Các tính từ chỉ những trạng thái đối lập “dữ dội, ồn ào” với “dịu êm, lặng lẽ” dường như đã phản ánh những quy luật của tự nhiên, của sóng biển, lúc mạnh mẽ cuộn trào trong giống tố, khi lại yên bình, đằm thắm xô bờ. Sóng là một hiện tượng tự nhiên chứa đựng nhiều đối cực, cũng giống như tâm tư của người con gái trong tình yêu đầy biến động, đa cung, nhiều bậc, lúc dỗi hờn giận dữ vô cớ, khi lại dịu dàng, ngọt ngào ấm áp đến lạ lùng. Và tình yêu cũng như vậy, không phải là một trạng thái cảm xúc thống nhất, mà nó cũng mang những sắc thái khác nhau, luôn đổi thay, chuyển hoá phức tạp như những nốt thăng trầm trong bản tình ca đôi lứa muôn đời.

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Hình ảnh sóng tồn tại trong nhiều không gian và chiều kích khác nhau “sông” với “bể”. Câu thơ như phản ánh một xu thế chung của tự nhiên: mọi dòng sông đều đổ ra biển lớn, như sóng, muốn thoát khỏi không gian chật hẹp để tiến đến không gian rộng lớn bao la. Đây là một trong những nét tiêu biểu của tiếng thơ Xuân Quỳnh – mãnh liệt và táo bạo. Trong tình yêu, “em” – người con gái cũng thế, hành trình sóng ra biển lớn cũng như hành trình người con gái dấn thân, thoát ra khỏi giới hạn cá nhân hạn hẹp để kiếm tìm sự đồng điệu và sẻ chia.

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Nếu trong những câu thơ trước, sóng hiện lên trong những trạng thái và không gian đối lập, thì đến đây, nhà thơ đặt sóng trong những chiều không gian khác nhau “ngày xưa”, “ngày sau”. Đây cũng là một quy luật tự nhiên: sóng chẳng bao giờ có thể ngừng vỗ, cũng như trái tim người con gái trong tình yêu chẳng bao giờ thôi vang lên những nhịp đập bồi hồi, những rung động mãnh liệt. Tình yêu chính là sự vĩnh hằng, tồn tại song hành cùng với sức sống muôn đời.
Mượn những quy luật của sóng trong tự nhiên, nhà thơ đã khái quát lên những quy luật trong tình yêu. Từ con sóng của tự nhiên, nó bỗng biến thành con sóng tình, đại diện cho tâm hồn người con gái, tâm hồn “em” – một người con gái cá tính, tinh tế, chủ động với một trái tìm chân thành và giàu trực cảm.
Không những thế, “sóng” và “em” còn song hành với nhau, cất lên những băn khoăn, trăn trở trong tình yêu. Trước hết là nỗi băn khoăn, khao khát đi tìm nguồn cội của tình yêu:

“Từ khi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?”

Khao khát kiếm tìm và lý giải nguồn gốc của tình yêu, có lẽ là khao khát muôn đời của đôi lứa yêu nhau, bởi mong muốn tìm hiểu cũng là mong muốn được chiếm hữu, được nắm giữ. Rõ ràng, “em” không chỉ muốn cảm nhận tình yêu, mà còn suy tư về nó, từng bước đi tìm đến nguồn cội của thứ cảm xúc ấy. Thế nhưng, câu trả lời lại vừa là lời thú nhận chân thật, cũng vừa là sự thức nhận của nữ sĩ

“Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?”

Bởi lẽ, tình yêu là sự huyền diệu của cuộc sống, mà ta phải tự cảm nhận nó, chứ không thể định nghĩa, hay lí giải được. “Khi nào ta yêu nhau?”, khi nào em yêu anh, từ ánh mắt, từ nụ cười hay là từ những phút giây và đôi tim cùng vang lên những nhịp sẻ chia, đồng điệu?. Vì sao mà yêu, yêu tự bao giờ, liệu rằng có còn quan trọng hay không khi ta biết rằng ta yêu nhau và chỉ cần có thế. Muốn hiểu được tình yêu cũng chính là muốn nắm giữ tình yêu đó trong tay, bởi vậy, cất lên từ lời trăn trở ấy, là cả một trái tim mê say, nồng thắm.
Đã yêu, ai mà chẳng nhớ, người con gái khi xưa lấy khăn mà nói nhớ “Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt”. Còn Xuân Quỳnh mượn những nhịp sóng nhớ thương để nói lên tiếng lòng của chính mình:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Con sóng hiện lên trong những không gian và thời gian đối lập “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”; “ngày” và “đêm”. Điệp từ “con sóng” và điệp cấu trúc câu thơ kết hợp với biện pháp nhân hoá khiến sóng như một chủ thể trữ tình “nhớ bờ” đến “không ngủ được”. Nỗi nhớ luôn dâng trào, hiện hữu dù là ở nơi đâu, hay bất cứ khi nào. Nhịp điệu miên man sôi trào khiến nỗi nhớ như những đợt sóng cứ thế trào lên, lớp này chồng lên lớp kia, rạo rực, ắp đầy, dạt dào, tha thiết, bao trùm lên thời gian, chiếm lĩnh các tầng không gian. Nỗi nhớ của người con gái dù là ở đâu, khi nào cũng luôn thắm nồng, rạo rực. Trái tim của người con gái khi yêu chính là như thế, như một đại dương mênh mông chẳng khi nào ngủ yên bởi những con sóng của nhớ nhung.

“Lòng em nghĩ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Dung lượng của đoạn thơ kéo dài từ 4 câu đến 6 câu. Nỗi nhớ tuôn trào, “em” chẳng còn mượn hình ảnh sóng để nói hộ lòng mình nữa mà trực tiếp xuất hiện để bộc lộc cảm xúc. Nỗi nhớ mãnh liệt quá, như con sóng tràn bờ, dẫn bạn đọc phá vỡ giới hạn để đến với những miền vô biên của cảm xúc. Hồn thơ Xuân Quỳnh quả thực vừa nồng nhiệt lại vừa táo bạo, vừa truyền thống trong nỗi thương nhớ, mà lại vừa hiện đại trong cách thể hiện.
Không những nhớ, Xuân Quỳnh còn thể hiện một trái tim thủy chung, sắt son:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Vẫn là những yếu tố mang tính đối lập “phương Bắc”-“phương Năm”, “xuôi”-“ngược”. Hành trình đi đến với tình yêu, vốn dĩ là một hành trình đầy gian truân của cuộc sống bộn bề. Còn Xuân Quỳnh là một con người vô cùng đa cảm, đã trải qua bao thăng trầm, đắng cay và ngọt bùi của tình yêu. Cuộc sống rộng lớn có 4 phương 8 hướng, vậy mà Xuân Quỳnh lại đặt “phương ảnh” cùng với “phương Bắc”, “phương Nam”, đủ để thấy, dù đi đâu, dù cuộc sống có vần xoay đến thế nào thì “anh”, thì tình yêu vẫn cứ mãi là kim chỉ nam cho trái tim, trở thành điểm tựa vững vàng để người con gái vượt qua những gian nan trắc trở của cuộc sống.
Bên cạnh những nỗi nhớ của một con tim thủy chung, “em” còn mang trong mình những nỗi lo âu, những dự cảm về giới hạn của cuộc sống. Biển rộng bao la cũng không vượt qua bờ, cuộc đời dù dài rộng nhưng cũng vẫn sẽ có điểm kết thúc, và tình yêu dù say đắm cũng có lúc nhạt phai. Xuân Quỳnh là một tâm hồn giàu trắc ẩn và đa sầu đa cảm. Nhưng nói ra những nỗi lo ấy, không phải là để đánh mất niềm tin vào tình yêu mà là để càng khẳng định thêm, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu.

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Niềm tin ấy không hề là sự bồng bột, ảo tưởng mà là những thức nhận đầu sâu sắc về chân lí của cuộc sống.
Và hai hình tượng “sóng”, “em” còn song hành cất lên khúc ca khát vọng về một tình yêu vĩnh viễn.

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

Tan ra, khát vọng được hoá thành sóng biển để sống mãi với cái vô tận của biển cả, muốn nối dài cuộc sống hữu hạn của con người. Đó cũng chính là khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng. Tan ra còn là hoà mình vào tình yêu, sống trọn với tình yêu, còn là dâng hiến, hi sinh, muốn được dành trọn cho tình yêu để ngàn năm còn rạo rực nhịp đập của một con tim thiết tha, mãnh liệt.
Hình tượng “sóng” và “em” như song hành và chuyển hoá. Sóng như phân thân của chủ thể trữ tình, khi tách riêng, khi lại hoà hợp để cất lên những tiếng lòng sâu thẳm của thi sĩ. Chính điều đặc sắc ấy đã làm nên thành công cho tác phẩm, giúp cho bài thơ mãi tươi xanh trong dòng chảy văn học, mãi trẻ trung, thổn thức trong trái tim bao thế hệ đôi lứa muôn đời.

Phân tích “Sóng” – mẫu 6

Nhà thơ Xuân Quỳnh có một chùm thơ về biển: “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Chỉ có sóng và em”. “Sóng” được nhiều bạn đọc nhớ đến, đây là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Bài thơ là nơi tập trung nhiều đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh: hồn hậu, nữ tính, chân thành. Đặc biệt qua bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh “đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời nhưng vẫn mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay” (Hà Minh Đức).
Xuân Quỳnh được biết đến như là cây bút nữ hàng đầu của thi ca tình yêu thời chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến. Thơ của chị là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đây được xem là một trong những sáng tác thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tài tình yêu.
Giáo sư Hà Minh Đức qua tiếng lòng của người phụ nữ trong “Sóng” đã nhận ra “một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”. Nghĩa là, tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ ấy đã mang những đặc điểm của một tình yêu truyền thống như bao nhiêu tình yêu của người phụ nữ khác. Tình yêu ấy luôn giữ cho mình nét hồn hậu, đằm thắm, nữ tính muôn đời. Nhưng ẩn đằng sau chất truyền thống ấy là “chất hiện đại như tình yêu hôm nay”. Đó là cá tính mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi bứt phá những nhỏ hẹp đời thường để đến với tình yêu rộng lớn bao la “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”. Hiện đại ở đây gắn liền với quan niệm tình yêu tự do chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.
Trước hết, “Sóng” thể hiện một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”. Tình yêu muôn đời có tự thuở xa xưa, khi trai gái biết nhớ thương, tình yêu bắt đầu bén rễ, hẹn hò bắt đầu làm tim nhau xốn xang để “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên” thì tình yêu đến. Nam giới thường tự do hơn trong tình yêu, tự do đến, tự do đi, tự do nói lời yêu, tự do bộc bạch. Còn phụ nữ, do đặc điểm về giới tính, về định kiến nên chuyện tình cảm đối với họ là điều khó bộc bạch. Vậy nên, trong tình yêu của người phụ nữ Việt Nam, cái truyền thống ngàn đời bó buộc họ trong một cái “khuôn” có sẵn.
Thì Xuân Quỳnh mượn sóng để nói lên nét nữ tính đáng yêu ngàn đời của người phụ nữ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sóng là một hình tượng ẩn dụ vừa hóa thân vừa hòa nhập với cái tôi trữ tình. Và ở đây, sóng góp phần nói lên tình cảm, tình yêu của Xuân Quỳnh. Tình yêu ấy có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất nữ tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng nhưng cũng là những cảm xúc nội tâm đầy phức tạp, mâu thuẫn nhưng cũng rất thống nhất hài hòa trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Xuân Quỳnh dùng quan hệ từ “và” ở giữa hai sự tương phản ấy chứ không phải là từ “nhưng”. Nếu là “nhưng” thì sự tương phản đối lập là hoàn toàn. Còn “và” thì trong cái dịu êm có cái dữ dội, trong ồn ào có cái lặng lẽ. Sự quân bình giữa hai trạng thái tâm hồn ấy tạo nên tình yêu muôn đời ở người phụ nữ thật đáng yêu làm sao.
Con sóng là sự vĩnh hằng của biển khơi (xưa cũng vậy và nay cũng vậy), và tình yêu luôn là sự khát khao bồi hồi của tuổi trẻ:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Quy luật muôn đời của tự nhiên là sóng “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế”. Nghĩa là nó bất biến, không thay đổi. Nó vẫn chứa đựng trong nó những cung bậc dữ dội, ồn ào, dịu êm, lặng lẽ muôn thuở ấy. Từ quy luật muôn đời ấy của tự nhiên, Xuân Quỳnh cũng rất tự nhiên khi chạm vào lòng ta quy luật của tình yêu muôn đời:

“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Dường như tuổi trẻ sinh ra là để yêu, và tình yêu có vị trí đặc biệt cho riêng tuổi trẻ vì “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu). Tình yêu là “cái buổi ban đầu lưu luyến ấy” đến bên ta như những con sóng nhỏ vỗ vào hồn để tim ta bồi hồi trong lồng ngực, để tâm hồn ta trào dâng bao “khát vọng” cồn cào. Vâng! Ông hoàng thi ca tình yêu Xuân Diệu đã đúng khi nói “Hãy để trẻ nhỏ nói vị ngọt của viên kẹo/ Hãy để tuổi trẻ nói hộ lời yêu”. Ai đang ở vào độ tuổi mười tám đôi mươi, ai đã đi qua thời tuổi trẻ, chắc chắn sẽ hiểu điều này.
Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng được phát triển theo quy luật chung của đời sống xã hội và quy luật riêng của mỗi tình yêu. Không dễ cắt nghĩa, luôn là những thắc mắc “Khi nào ta yêu nhau” và rất khó xác định, không theo một quy luật chung nhất.

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?”

Biển cả là thiên nhiên thuộc về bao la, vô tận, vô cùng là ẩn dụ cho tình yêu vĩnh cửu vĩnh hằng. Trước biển, người con gái là em cảm thấy bé nhỏ quá. Nhìn những con sóng bất tận xô bờ mà lòng bỗng phân vân. Điệp ngữ “em nghĩ” ấy cứ láy đi láy lại hai lần để rồi trong tâm hồn người con gái nhiều ưu tư ấy bật lên nhiều trăn trở:

“Từ nơi nào sóng lên?
Gió bắt đầu từ đâu?
Khi nào ta yêu nhau?”

Ba câu hỏi ấy là hỏi về nguồn gốc của sóng gió và cũng là nguồn gốc bí ẩn muôn đời của tình yêu. Ba câu hỏi ấy có cùng chung một câu trả lời thật nữ tính, đáng yêu, rất ư là con gái:

“Em cũng không biết nữa”

Ta bắt gặp cái lắc đầu nhè nhẹ, cái bất lực đáng yêu. Và bởi vì em như thế nên tình yêu càng trở nên bí ẩn để anh mãi mãi đi tìm.
Nét nghĩa nữa trong ý thơ về nguồn gốc tình yêu trên là: tình yêu muôn đời vẫn là một ẩn số. Nó tựa như một giai điệu không có nốt nhạc kết, một bài thơ không có kết thúc, một bài toán không có đáp số… Tình yêu là sự khám phá hai thế giới, khám phá hai vũ trụ mà sự ngăn cách là “giới hạn không thể vượt qua”. Vì thế nên không một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về tình yêu, hay nói đúng hơn là mọi định nghĩa về tình yêu đều trở nên gượng ép. Nói chung, càng yêu say đắm bao nhiêu, chân thành bao nhiêu thì người ta càng không thể lý giải được ngọn nguồn của nó. Hiểu như thế, ta càng yêu, càng quý người con gái trong bài thơ này vì tình yêu ấy chắc chắn không hề vụ lợi, toan tính mà rất tự nhiên, rất chân thành, đằm thắm.
Tình yêu truyền thống không thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy chung. Nếu thủy chung là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ là nồng độ để đo độ thủy chung ấy:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Có ai đó đã từng nói rằng: “Một trái tim đang nhớ là biểu hiện của một trái tim đang yêu còn một trái tim đã ngừng nhớ là biểu hiện của một tình yêu sắp sửa lụi tàn”. Từ xưa tới nay, tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ, nỗi nhớ gắn với hai đầu “ở hai đầu nỗi nhớ”.
Trong bài thơ “Sóng” nhà thơ mượn sóng để nói lên nỗi nhớ mãnh liệt của mình. Sóng nhớ bờ mà nỗi nhớ trùm lên mọi không gian “lòng sâu”, “mặt nước”, trùm lên mọi thời gian “ngày đêm không ngủ được” để khao khát hướng vào bờ. Nỗi nhớ ấy vừa hiện diện trong chiều rộng “trên mặt nước” vừa có chiều sâu “dưới lòng sâu”. Sóng không ngủ được cũng như em nhớ anh đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh quả rất sâu sắc khi dùng đến sáu dòng thơ để bộc bạch nỗi nhớ. Trong đó hai câu cuối khổ năm quả rất tài tình:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Chữ “lòng” thật gợi cảm, nó là nhãn tự của cả câu thơ. Ý thơ giàu sức gợi có lẽ cũng là ở đây. Lòng là nơi sâu thẳm của tâm hồn con người, nhất là tâm hồn người phụ nữ. Nơi ẩn giấu những tình cảm chân thành đằm thắm. Nơi để yêu thương, sầu khổ, dịu dàng… Và khi Xuân Quỳnh nói “Lòng em nhớ đến anh” thì hãy hiểu rằng, người con gái ấy đã nghiêng hết cả tình yêu, dốc cạn cả tim mình để hướng về phương anh rồi. Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” diễn tả nỗi nhớ thường trực. Nghĩa là cả trong tiềm thức, ý thức lẫn vô thức, hình bóng của người yêu vẫn cứ ám ảnh đến ngọt ngào khiến em “ra ngẩn vào ngơ một mình”.
Tình yêu truyền thống của người phụ nữ Việt là gắn liền với thủy chung. Vì yêu thương của người phụ nữ Việt là canh bạc mà yêu thương là sự “đặt cược” cuối cùng. Mất hết yêu thương coi như là sự trắng tay. Nhưng dù sao đi nữa thì em vẫn:

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

Hai câu thơ đầu như một mệnh đề với cặp từ “dẫu” đứng ở đầu câu cùng phép điệp cấu trúc “Dẫu xuôi – Dẫu ngược”. Các động từ “xuôi”, “ngược” và không gian địa lý Bắc – Nam đã góp phần làm nhấn mạnh sự xa xôi cách trở, sự vất vả, gian nan. Để mệnh đề hai Xuân Quỳnh khẳng định: Dẫu xa xôi cách trở, dẫu vất vả gian nan thì:

“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

“Nơi nào” – “cũng nghĩ” là cách diễn tả một cảm xúc thường trực, ám ảnh. Còn “hướng về anh” là sự toàn tâm toàn ý. Lại thêm dấu gạch nối ở giữa và chữ “một phương” ở cuối câu thơ. Càng chắc chắn thêm cho sự khẳng định hướng về anh là cả “toàn hồn” của em.
Đã yêu là tin và người phụ nữ trong tình yêu ngàn đời luôn tin điều đó. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa vô cùng, gặp muôn ngàn bão tố nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở”.
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng ở mức độ tình yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu – hạnh phúc, tình yêu gắn với cuộc sống chung, với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu của tình cảm, với nhiều minh chứng của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm. Đặc biệt nó có “tính hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Qua hình tượng sóng và toàn bộ bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình. Nếu như những cô gái trong ca dao xưa khi yêu chỉ biết thụ động “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi không thể quyết định lấy được hạnh phúc của mình.
Thì ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Vì sóng chỉ thực sự là sóng khi nó tìm về với đại dương. Đại dương thực sự là nơi vĩnh hằng của sóng. Còn lòng sông chật hẹp kia muôn đời sao có thể làm con sóng yên lòng được. Cũng như vậy, tình yêu hiện đại là tình yêu không cam chịu một tình cảm nhỏ nhen, ích kỷ, tầm thường. Vì vậy, nếu anh hẹp hòi và thiếu sự bao dung thì em sẵn sàng từ bỏ anh để ra đi tìm tình yêu rộng lớn hơn.
Tình yêu hiện đại đó còn là một tình yêu với nhiều cung bậc (dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ, cả trong mơ còn thức…). Có lúc chị còn muốn hiến dâng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Cụm từ “tan ra” không phải mất đi mà trường tồn đến ngàn năm vì Xuân Quỳnh biết chọn biển lớn tình yêu mà vỗ sóng. Biển lớn là hình ảnh cường tráng của điểm tựa tình yêu, tình người khiến bài thơ ấm và chắc. Sức hút của bài thơ là sức hút của người con gái biết yêu chủ động, mãnh liệt, biết dành hết mình cho tình yêu. Tình yêu của cá nhân con người chỉ có thể trở thành vĩnh cửu và bất tử khi tình yêu đó hóa thân vào biển lớn của tình yêu nhân loại. Xuân Quỳnh đã dám yêu và dám thổ lộ tất cả, đó là nét mới mẻ hiện đại trong tình yêu.
Có thể nói “Sóng” là khát vọng tình yêu, tồn tại mãi trong trái tim giàu yêu thương của Xuân Quỳnh và của chúng ta. “Sóng” vừa mang tính chất truyền thống muôn đời vừa mang tính chất hiện đại của tình yêu hôm nay. Con sóng của Xuân Quỳnh vừa dịu dàng neo đậu vào bờ bến thuỷ chung vừa mới mẻ, hiện đại và táo bạo vô cùng. Đến đây có thể khẳng định ý kiến của giáo sư Hà Minh Đức là hoàn toàn chính xác: Qua bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh “đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời nhưng vẫn mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thi ca tình yêu Xuân Quỳnh giống như câu chuyện cổ tích về tình yêu. Nó đánh thức ta, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, về đạo lý, ân tình của tình yêu khiến mỗi câu thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta bao sợi nhớ sợi thương. Từ đó soi chiếu vào tình yêu của mình chúng ta biết trân trọng những gì có trong cuộc sống hôm nay.

Phân tích “Sóng” – mẫu 7

Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng thơ tình yêu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các sáng tác của chị là một tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn vừa hồn nhiên, vừa đằm thắm lại nhiều khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đến với bài thơ “Sóng”, người đọc sẽ thấy được sự kết hợp giữa nét đẹp truyền thống và hiện đại làm nên vẻ đẹp của người con gái khi yêu.
Đầu tiên, “Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu với những quan niệm mới mẻ. Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc trong tình yêu với những điểm đối lập:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Cũng giống như con sóng ngoài đại dương, người con gái trong tình yêu cũng có những cung bậc cảm xúc thật đa dạng. Khi thì dữ dội, ồn ào đấy mà cũng có lúc lại thật êm đềm, lặng lẽ. Tình yêu dường như luôn có quy luật mà lý trí chẳng thể giải thích được. Để rồi, người con gái khi yêu đã có suy nghĩ:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Cái mở mẻ của Xuân Quỳnh ở đây chính là sự chủ động của người con gái trong tình yêu. Nếu như “sông” không thể hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển lớn – tìm đến với tình yêu đích thực của đời mình.
Không chỉ vậy, người con gái trong “Sóng” còn sẵn sàng dâng hiến, hy sinh cho tình yêu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàm năm còn vỗ”

Câu hỏi tu từ “Làm sao” mở đầu khổ thơ như một lời tự vấn. Làm thế nào để có thể sống trọn vẹn với tình yêu? Người phụ nữ khi yêu cũng vô cùng mãnh liệt, họ ước mong được sống trọn vẹn với từng khoảnh khắc trong tình yêu. Ở đây, Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” thể hiện nét dịu dàng của người phụ nữ.
Dẫu hiện đại là vậy, nhưng trong tình yêu, “em” vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống. Tình yêu nào mà không được đong đếm bởi nỗi nhớ, và người con gái trong “Sóng cũng vậy”:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Con sóng” được khắc họa ở hai chiều – không gian và thời gian. Dù “ở dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” – chiều không gian, dù là “ngày” hay “đêm” – chiều thời gian, thì con sóng “vẫn nhớ đến bờ” đến nỗi không ngủ được. Và nếu “sóng” nhớ “bờ” thì “em” lại nhớ đến “anh”. Nhưng con sóng kia còn có thể bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Còn nỗi nhớ của em thì phá vỡ mọi khoảng cách địa lý. Em nhớ anh mà ngay cả “trong mơ vẫn còn thức”. Hình ảnh của anh đã đi vào tâm trí của em. Đó chẳng phải là điều gì xa lạ trong thơ ca.
Đặc biệt nhất đó chính là tấm lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu xuôi về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng trái với quy luật thông thường (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam) với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của em vẫn giữ được tình yêu nguyên vẹn dành cho anh dù có trải qua biết bao nhiêu khó khăn, sóng gió trong cuộc đời. Em vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất, không hề thay đổi. Tấm lòng thủy chung, son sắc của em thật đáng trân trọng.
Có tấm lòng thủy chung, “em” sẽ mãi tin vào tình yêu của mình:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Con sóng nào rồi cũng sẽ tới bờ, cũng như em rồi sẽ gặp lại anh. Khi ấy, tình yêu của chúng ta sẽ tồn tại vĩnh viễn dẫu năm tháng có thay đổi.
Như vậy, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh tuy đầy mãnh liệt, sôi nổi nhưng vẫn đằm thắm, thủy chung – nét đẹp cổ điển.
Qua phân tích trên, “Sóng” đã thể hiện vẻ đẹp truyền thống cũng như hiện đại của người con gái trong tình yêu. Thơ của Xuân Quỳnh quả là tiếng lòng chân thật của người phụ nữ.

Phân tích “Sóng” – mẫu 8

Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguôi yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi tiếng thơ mình. Tình yêu trong từng câu thơ là tình yêu của một người, mà cũng là của mọi người, là tình yêu của một thời mà cũng là của mọi thời. Vì thế có ý kiến cho rằng:
“Sóng đã thể hiện tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời”.
Ý kiến khác lại khẳng định:
“Sóng đã thể hiện tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Về ý kiến thứ nhất, “tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời” là tình yêu gắn với những cung bậc cảm xúc quen thuộc, phổ biến, những trạng thái đã trở thành quy luật muôn đời. Còn “tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay” trong ý kiến thứ hai chính là khẳng định cái nhìn mang tính mới mẻ, phát hiện về tình yêu của Xuân Quỳnh. Hai ý kiến là những cách nhìn riêng về những khía cạnh khác nhau về nội dung của tác phẩm.
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), là tiếng thơ của những ngọt ngào, đắng cay từng trải trong tình yêu, khi đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ trong tình yêu mà vẫn thật tha thiết, tràn đầy khát vọng. Bài thơ có sự song hành hình tượng giữa “sóng” và “em”: “Sóng” và “em” có lúc tách ra để soi chiếu vào nhau, có lúc lại hòa hợp thống nhất. Sóng biển và sóng lòng, sóng nước và sóng tình ẩn hiện, đan nguyên vào nhau tạo ra những cảm xúc mới mẻ. Bởi thế, sóng có thể nói là một ẩn dụ không hoàn toàn cho em, cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu và trong cuộc sống.
Trước hết, sóng đã thể hiện “tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời”.
Đó là những cung bậc vừa thống nhất lại vừa đối lập:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Trong người phụ nữ, luôn tồn tại những trạng thái đối cực. Hai câu thơ có thể đúng với bao người nhưng nó không phải là lời của một nhà nghiên cứu trong tình yêu đứng ngoài nhìn vào. Nó được viết ra trước hết là một lời tự thú chân thành và tự nhiên đến độ khiến ta phải ngỡ ngàng: thì ra, trái tim của người phụ nữ luôn có những đối cực như thế: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Nhà thơ đặt liên từ “và” – không phải bức tường ngăn cách mà là sự kết hợp, chuyển hóa. Người phụ nữ có thể ồn ào, dữ dội nhưng cuối cùng cũng là sự trở về của thiên tính nữ: dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là sự hiện diện của cái “tôi” Xuân Quỳnh. Như vậy, tình yêu không bao giờ là trạng thái tâm lí tuần nhất mà là sự hòa kết của những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối lập như những nốt thăng, trầm làm nên bản tình ca đôi lứa.
Đó là những khát vọng tình yêu, sự trẻ trung của con người trong tình yêu và sự trẻ trung không thể cắt nghĩa, lí giải được:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

– Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Đối với người phụ nữ, tình yêu không có tuổi: “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn thế, “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”. Tuy vậy, họ vẫn luôn khao khát muốn được kiếm tìm về nguồn cội của tình yêu. Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?” với lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Đó là cái lắc đầu biểu thị một tâm lí rất phụ nữ: không ham rạch ròi dẫu trong lòng còn bao nhiêu bức xúc “đòi tìm ra tận bể” để hiểu, để nghĩ. Nó là bức xúc của tình cảm hơn là bức xúc của trí tuệ. Phải chăng ở trong đời, “phái yếu” không mong gì hơn một mái ấm yên vui, một gia đình hạnh phúc? Ít nhất, với Xuân Quỳnh là như vậy.
Đó là những sắc thái muôn thuở của tình yêu:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
(…)
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”

Điệp từ “sóng” liên tiếp làm cho những con sóng nhớ thương như đang trào dâng dào dạt khỏi bề mặt con chữ, vừa gợi cái sôi trào mà miên man, sâu lắng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ đầy ắp không gian: “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, tràn ngập thời gian “ngày đêm”. Từ nỗi nhớ “bồi hổi bồi hồi” trong ca dao đến nỗi nhớ thiết tha của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh”, nỗi nhớ đến ngẩn ngơ của Hàn Mặc Tử: “Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”,… Và cả tấm lòng son sắt thủy chung không đổi trong khổ dưới. Trong khổ thơ, ta đã thấy sự khác biệt so với cách diễn đạt thông thường, không phải là ngược Bắc xuôi Nam mà là “xuôi Bắc ngược Nam”. Sự khác biệt hé lộ một tình yêu trắc trở, gian nan. Nhưng đối với Xuân Quỳnh, dù có xáo trộn xuôi – ngược thì điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Quang trọng nhất chỉ là “phương anh”. Nếu khổ thơ trên, nữ sĩ soi vào sóng để nhận ra mình thì ở đây, nhà thơ nhìn sâu vào mình để nhìn vào quy luật sóng: sóng hướng về bờ thì cuộc đời em duy nhất chỉ hướng về anh. Tất cả những trạng thái ấy là những cung bậc nổi bật trong tình yêu.
Nhưng sóng còn là hình ảnh của “tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Đó là vẻ đẹp của sự vận chủ động táo bạo trong hành trình dấn thân tìm kiếm tình yêu:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do. Khám phá những không gian tồn tại của sóng, Xuân Quỳnh phát hiện ra: hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là hành trình con người đến với tình yêu: phải biết vượt qua những giới hạn bản thân chật hẹp để hòa nhập vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm hạnh phúc. Đó là hành trình dấn thân tự nguyên, say mê để tìm đến hạnh phúc và sống trọn vẹn.
Đó còn là sự mãnh liệt trong nỗi nhớ, trong sự bày tỏ tâm hồn, tình cảm trong tình yêu:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ của người con gái ấy cồn cào, da diết đến nỗi những con sóng kia cũng chẳng thể diễn tả hết mà tự em phải giãi bày. Hai câu thơ cuối như con sóng xuyên qua cả cõi thực, cõi mộng. Không chỉ ở ý thức mà còn lắng sâu vào tiềm thức để hiện ra trong giấc mơ. Cái dào dạt nhớ nhung khiến cảm xúc tràn bờ mà kéo dung lượng ra 6 câu để biểu đạt.
Nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” rất đậm chất Xuân Quỳnh: mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo, giàu nữ tính. Xuân Quỳnh là thế: bao giờ cũng dám sống thật với mình, thật với cảm xúc của chính mình.
Đó còn là một trái tim đa cảm, giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa tràn đầy niềm tin, khát vọng:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời đi dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Ðể ngàn năm còn vỗ.”

Với trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng người, người phụ nữ thường có những lo âu về những điều bất chắc: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy luật cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy tình yêu kia có thể bất biến giữa thời gian? Nhưng cuối cùng, người con gái vẫn chọn trao niềm tin trọn vẹn. Cặp quan hệ từ “tuy – vẫn” mang sắc thái khẳng định khiến nỗi lo kia chỉ như thoáng qua rồi lại tan biến vào trong những đợt sóng, chỉ còn niềm tin ở lại làm điểm tựa cho tâm hồn. “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời cách trở”. Niềm tin ấy không phải sự ảo tưởng, bồng bột mà là sự thức tỉnh chân lí đời sống nên nó trọn vẹn và tha thiết.
Cuối cùng, sóng là hình ảnh của những khát vọng người phụ nữ. “Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ? Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ.
Như vậy, hai ý kiến vẫn chưa thật toàn diện, chúng bổ sung cho nhau để đánh giá về nội dung bài thơ: vẻ đẹp hình tượng “sóng” và các cung bậc, trạng thái trong “Sóng”. Điều đó được thể hiện thành công qua những câu thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Quỳnh. Sóng không được vẽ ra bằng hình ảnh, đường nét mà bằng âm điệu độc đáo, thể thơ 5 chữ, lối gieo vần gián cách, ngắt nhịp linh hoạt gợi ra hình ảnh những con sóng cao thấp liên tiếp. Cách tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc: hô ứng tương xứng, trùng điệp, gợi cái dào dạt, sôi trào mà miên man sâu lắng.
Xin mượn lời khẳng định của nhà phê bình Chu Văn Sơn thay cho lời kết: “Giờ đây, đặt chân dung nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vào dòng thời gian, thì không chỉ đặt chị vào vị trí đầu của top thi sĩ cùng thời Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Nhã Ca. Mà theo trục dọc, phải đặt chị trong cái mạch thưa thớt những nữ sĩ xuất chúng của thơ Việt như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan… Xuân Quỳnh thực là một trong những gương mặt nữ sáng giá nhất của thơ Việt. Có lẽ vị trí ấy mới là điều công chúng nghệ thuật Việt hôm qua và hôm nay muốn dành cho nữ thi sĩ này.”

Phân tích “Sóng” – mẫu 9

Hình tượng sóng và “em” là hai hình tượng chủ đạo được Xuân Quỳnh xây dựng trong bài thơ “Sóng”. Hai hình tượng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi độ sâu của tầng ý nghĩa và độ tập trung của bút lực nhà thơ. Dưới đây là bài viết chi tiết cảm nhận về hai hình tượng này.
Nhà văn là người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật trên chất liệu ngôn ngữ và phản ánh đời sống bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng gần như là điều “sống còn” với văn học. Một tác phẩm tạo dựng được hình tượng nghệ thuật đủ đặc sắc, đủ ấn tượng là đã một phần thành công. Thông qua hình tượng, nhà văn không chỉ thể hiện cái nhìn đời sống mà còn muốn gửi gắm tấm lòng của chính mình đối với hiện thực ấy. Chẳng thế mà đọc “Song” của Xuân Quỳnh, ta thấy sóng vỗ, thấy “em” tình tự và cũng thấy cả cô gái Xuân Quỳnh đang bày tỏ nỗi lòng yêu. Thông qua hai hình tượng, nhà văn đã bày tỏ những tâm sự, nghĩ suy của mình về bản chất, qui luật và những sắc thái của trái tim trong tình yêu. Cảm nhận hình tượng sóng và em trong bài thơ “Sóng” là một đề tài hay cho bài viết và cũng là một định hướng khi tiếp cận tác phẩm “Sóng” của Xuân Quỳnh. Chúc các bạn thành công!
Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều lần, tình yêu đã chiếm cứ hồn thơ nhà văn để sôi trào mãnh liệt trên trang giấy. Nếu ta thấy một chàng trai Xuân Diệu nhiệt huyết, đắm mình trong tình yêu thì ta lại thấy một cô gái Xuân Quỳnh nhẹ nhàng, dịu êm với một tình yêu nữ tính. Mượn hình tượng sóng và em trong tác phẩm “Sóng”, nhà thơ đã thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ của mình về tình yêu.
Xuân Quỳnh là nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ thời chống Mĩ cứu nước. Các tác phẩm của Xuân Quỳnh là tiếng nói đậm đà của cảm xúc, mang thiên tính nữ của một tâm hồn phụ nữ luôn khát khao yêu thương. “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi vào Diêm Điền, Thái Bình của nữ sĩ. Hình tượng sóng và em trong bài thơ song hành, hòa nhập vào nhau, là hóa thân của chính Xuân Quỳnh để nói lên cảm xúc, suy tư về tình yêu, về những quy luật, trạng thái và khát vọng của nữ sĩ khi đứng trước dập dìu sóng vỗ.
Sóng và “em” cùng mang những bản ngã và cùng hòa nhập trong biển lớn khát vọng. Cả hai đều mang trong mình những trạng thái đối lập:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Sóng mang trong mình những đối cực “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Đó là những trạng thái khác nhau của sóng trong lòng đại dương và những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn người con gái đang yêu. Con sóng trong thiên nhiên lúc dữ dội lúc dịu êm thì “em” trong tình yêu cũng có lúc êm đềm khi dông tố. Xuân Quỳnh đã biến con sóng từ một hiện tượng tự nhiên trở thành một chủ thể đầy tâm trạng. Giữa các đối cực nhà thơ đặt liên từ “và”. Khả năng dùng từ tinh tế đã diễn tả sự song hành của các đối cực: con sóng trong thơ Xuân Quỳnh có lúc cô ồn à, dữ dội nhưng bao giờ cũng đổ về phía dịu êm, lặng lẽ bởi sáng ở đây mang thiên tính nữ. Nó là sự hiện diện của “em” và cũng là của cái trữ tình Xuân Quỳnh. Bản tính của sóng và “em” còn thể hiện ở không gian tồn tại:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Trong tự nhiên, tất cả các dòng sông đều đổ về biển cả. Những con sóng nhỏ mang trong mình khát vọng lớn luôn có xu hướng tìm thoát khỏi không gian chật hẹp để đến với những không gian thoáng đạt hơn. Hành trình từ sóng đến biển cũng là hành trình của con người đến với tình yêu, con người muốn đến với tình yêu cần phải vượt qua những giới hạn cá nhân để hòa vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm sự đồng điệu và sẻ chia. Sóng và “em” qua hành trình ấy không chỉ là tìm kiếm bến bờ hạnh phúc mà còn là tìm đến với nơi mình nên tồn tại, tìm về với chính mình để sống trọn vẹn là mình. Đó vừa là quy luật tự nhiên, quy luật tâm hồn và cũng là khát vọng của sóng, khát vọng của tâm hồn “em”. Bản chất của sóng không chỉ tồn tại trong những chiều kích không gian khác nhau mà còn tồn tại trong những chiều thời gian khác nhau:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Nhà thơ đứng ở hiện tại nhìn sóng từ ngày xưa cho đến ngày sau, để thấy sóng vỗ nhịp ngoài đại dương làm nên sự sống của biển cả, cũng giống như tình yêu muôn đời vẫn rực rỡ làm nên ý nghĩa và sự sống trong trái tim “em”. Sự tồn tại của tình yêu trong chiều thời gian từ ngày xưa cho đến ngày sau còn thể hiện sức sống bất diệt của tình yêu và cũng là sức sống, sức trẻ bền bỉ của mỗi trái tim yêu. Nhà thơ đã soi vào sóng để thấy “em”, soi vào “em” để thấy chính mình.
Hình tượng sóng và “em” còn mang trong mình những nỗi niềm, những thao thức về tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?”

Câu hỏi tu từ lúc ẩn lúc hiện trong chân sóng, lúc trào lên đầu ngọn sóng như những băn khoăn trăn trở. “Em” không cảm nhận mà nghĩ về sóng, đang suy tư và nghĩ về tình yêu. Nương theo những con sóng, ‘em” bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu:

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Câu trả lời vừa là sự thú nhận về sự bất lực của “em” trên hành trình tìm kiếm cội nguồn tình yêu vừa là sự thức nhận sâu sắc về một chân lý: tình yêu là điều huyền diệu của cuộc sống, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm được nơi khởi nguồn.
Sóng khát khao tìm đến bờ, con “em” thì khát khao hướng đến anh trong nỗi nhớ rạo rực:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Sóng được nhân hóa thành một chủ thể có trái tim yêu nồng nàn. Điệp từ “sóng’ gợi những con sóng yêu thương cứ dâng lên hết lớp này đến lớp khác trong trái tim yêu của “em”, vừa gợi ra nhịp dạt dào, miên man, sâu lắng trong nỗi nhớ thương. Sự tương phản “ngày” – “đêm”, “trong lòng sâu” – “trên mặt nước” khiến nỗi nhớ bao chùm lên các chiều thời gian và không gian, hình dung trái tim “em’ đang yêu giống như một đại dương mênh mông không lúc nào im lặng ở những con sóng của nhớ nhung. Nữ sĩ mượn sóng để nói lời tình yêu nhưng sóng cũng không nói hết được chiều sâu và sự mãnh liệt của nỗi nhớ nên “em” đã trực tiếp xuất hiện để bày tỏ:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ không chỉ hiện diện trong ý thức mà còn sống dậy trong tiềm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Dung lượng câu thơ từ bốn chuyển thành sáu chữ câu để biểu đạt đến tận cùng của nỗi nhớ. “Em”, hay chính nhà thơ đã tự phá vỡ các giới hạn dẫn chúng ta đến với thế giới vô biên của tâm hồn con người.
Trái tim yêu chỉ dung chứa được một người, bởi yêu là thủy chung. Hình tượng sóng và “em” hiện ra với tình yêu chân thành, sâu sắc và duy nhất như thế:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Nhà thơ đã đặt khái niệm “phương anh” bên cạnh phương bắc phương nam để phân biệt hai chiều không gian: địa lý và tình yêu. Nếu trong không gian địa lý có bốn phương tám hướng thì trong tình yêu, “em: chỉ để biết đến “phương anh”. Hai chữ “một phương” đã khẳng định thủy chung là bản chất của tình yêu. Các chữ “ngược”, “xuôi” thể hiện một tình yêu bền vững được thử thách qua hành trình lên thác xuống ghềnh, vừa làm hiện lên bóng dáng “em” lấy điểm tựa là tình yêu để lo toan xuôi ngược trong hành trình khác nhau của cuộc sống.
Xuân Quỳnh từng viết: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”, yêu là vừa tin tưởng vừa lo âu. Hình tượng sóng và “em” cũng nhuốm sắc thái tâm trạng ấy:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn nên “em” rất nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Vì vậy câu thơ thoáng có nét lo âu, dự cảm về những điều bất trắc. Nhà thơ đã nhận ra những giới hạn cuộc đời tuy dài nhưng vẫn có điểm kết thúc, biển dù rộng nhưng vẫn có bờ, tình yêu cũng không là vĩnh viễn, có thể mờ phai trong dòng chảy thời gian. Vượt lên trên nỗi lo âu, “em” vẫn giữ niềm tin vào sự vững bền của tình yêu, của lòng người. Hình ảnh trăm nghìn con sóng vỗ bờ, những đám mây mỏng manh có thể vượt qua sự dài rộng của năm tháng đã khơi dậy trong “em” niềm tin về tình yêu, con người có thể đến với cái đích của cuộc đời mình, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống.
Sống mãnh liệt với tình yêu, luôn ồn ào sóng vỗ nên sóng và “em” cùng giữ cho mình khao khát hòa vào biển đời rộng lớn:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

“Em” khát vọng được hóa thân thành sóng để tồn tại trong cái vô tận của không gian và cái vĩnh hằng của ngàn năm. Khát vọng ấy là khát vọng muốn vĩnh viễn hóa tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cuộc đời vốn ngắn ngủi và hữu hạn của con người. Lý tưởng ấy gợi mở hình ảnh “em” – một cô gái đắm say, sẵn sàng hi sinh và dâng hiến cho tình yêu.
Hình tượng sóng và “em” khi thì song hành với nhau, cũng có khi “em” lại tách mình ra để nói trực tiếp nỗi lòng, rồi lại hòa nhập vào với nhau trong biển tình yêu. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt đã tạo âm hưởng dạt dào, sâu lắng như nhịp sóng vỗ ngoài đại dương, như sóng lòng đang gối lên nhau trong lòng “em”. Hai hình tượng đều là tiếng lòng của nhà thơ, nỗi nhớ ấy, khát vọng ấy, những đối cực ấy, là Xuân Quỳnh đang vẽ lên bức chân dung chính tâm hồn mình.

Phân tích “Sóng” – mẫu 10

Xuân Quỳnh là người phụ nữ có một cuộc đời nhiều đa đoan lo âu vất vả. Đó là người đàn bà có trái tim đa cảm gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày trân trọng nâng niu và chi chút cho hạnh phúc bình dị, đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, hồn hậu, thuỷ chung luôn da diết khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị. Đọc thơ Xuân Quỳnh, người đọc bị chinh phục không phải vì nghệ thuật cao cường của nhà thơ mà chính vì những “thông tin nhân văn ” mới mẻ, kỳ lạ mà sâu sắc thuộc về một “mẫu người ưu tú và độc đáo”
Bài thơ “Sóng” với chủ đề là lời tự bạch chân thành của trái tim người phụ nữ đang yêu thể hiện tâm hồn phong phú, khát khao hạnh phúc và tự nhận thức về tình yêu hạnh phúc.
Vẻ đẹp hiện đại ở trong bài thơ sóng là sự chủ động táo bạo của người con gái đang yêu với khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết. Đó là những rung động rạo rực cùng một trái tim yêu luôn luôn có niềm tin vào sức mạnh của tình yêu
Vẻ đẹp truyền thống là về đẹp mang tính kế thừa gắn liền với người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Đó là sự giãi bày kín đáo ý nhị cùng với lòng thuỷ chung, son sắt nhưng cũng không dấu nổi những lo âu trăn trở về tình yêu và đời người.
Người con gái chủ động đến táo bạo, cương quyết rời bỏ không gian tù túng chật hẹp để đến với biển lớn bao la rộng lớn minh mông để nhận thức về mình hiểu mình và được là mình

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sông trong tương quan với biển là một không gian nhỏ hẹp, chật chội, đầy tù túng. Người con gái Xuân Quỳnh đã khéo léo mượn hình ảnh sóng từ bỏ lòng sông chật hẹp để đến với đại dương mênh mông để nói lên cái khát vọng được hướng tới tình yêu tuyệt đích vô biên. Đó là thứ tình yêu chân chính đầy sự bao dung, vị tha thấu hiểu sẻ chia. Người con gái quyết không chấp nhận một thứ tình yêu tầm thường vị kỷ không hiểu nổi mình. Biện pháp nhân hóa sóng tìm ra tận bể đã thể hiện sâu sắc quyết tâm sắt đá khao khát cháy bỏng, một sự ráo riết đến tận cùng của người phụ nữ trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc và nhu cầu tự nhận thức về mình. Ta thấy ẩn hiện đằng sau những câu thơ ấy là một quan điểm tiến bộ sâu sắc về tình yêu và cuộc đời. Bản chất của tình yêu vốn là sự rộng lớn thoáng đạt và bao dung.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở khát vọng tình yêu mãnh liệt luôn âm ỉ, bùng cháy trong trái tim người con gái.

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Người con gái Xuân Quỳnh đứng trước biển – khoảnh khắc mà người con gái tách mình ra khỏi để cảm nhận rõ hơn những rung động bồi hồi trong trái tim. Trạng từ chỉ thời gian “ngày xưa” – “ngày sau” kết hợp với phó từ “vẫn” gợi lên cảm nhận của thi sĩ về nét vĩnh hằng của những con sóng. Hàng ngàn hàng vạn năm qua những con sóng ngoài khơi vẫn cất lên bài ca bất tử. Nó vẫn là nó, vẫn vỗ mãi ngàn năm như bản tình ca của biển.
Cũng như sóng khát vọng tình yêu mãi mãi là một khao khát cháy bỏng phải sợ gì bồi hồi trong trái tim con người nhất là tuổi trẻ. Ở đây “ngực trẻ” không chỉ hướng đến tình yêu của những người trẻ mà làm bất cứ ai mà trong trái tim đều đang rung lên nhịp đập thổn thức của tình yêu bởi khao khát yêu và được yêu là không của riêng ai mà là của tất cả chúng ta. Chính vì lẽ đó tình yêu quả thật là suối nguồn tươi trẻ luôn chảy mãi trong tâm hồn con người.
Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua khao khát khám phá và nhận thức đầy chủ động của một cảm xúc mãnh liệt

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Giọng thơ chuyển sang giọng điệu suy tư trăn trở băn khoăn về tình yêu, hàng loạt câu hỏi tu từ “từ nơi nào sóng lên?”, “gió bắt đầu từ đâu?” kết hợp với điệp ngữ “em nghĩ về” đã thể hiện rõ phần nào những băn khoăn về cội nguồn của tình yêu hay cũng chính là nhu cầu tự nhận thức của trái tim người con gái đang yêu
Người con gái đứng trước muôn trùng sóng biển tự trách mình ra khỏi sóng để nhận thức để soi mình vào lòng sóng, để nhận thức rõ hơn được những tình cảm chất chứa nơi đây trái tim mình. Những câu hỏi cứ liên tiếp, dồn dập trong tâm trí nhưng liệu có tồn tại câu trả lời cuối cùng hay không. Có lẽ câu trả lời là không bởi nhà thơ Xuân Quỳnh đã bất lực thốt lên:

“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Bởi thế một thoáng bối rối, 1 chút ngập ngừng, băn khoăn trong nỗ lực thì lý giải về cội nguồn của sóng và khởi thủy của tình yêu mới chính là tiếng lòng của một trái tim yêu đích thực. Dẫu nỗ lực lý giải, cắt nghĩa tường tận, cặn kẽ nơi khởi điểm của tình yêu là điều không thể nhưng qua đó Xuân Quỳnh đã bộc lộ được những tình cảm vô cùng mãnh liệt của mình.
Vẻ đẹp của người con gái mang đậm dấu ấn hiện đại khi chủ động bày tỏ nỗi nhớ của mình, chủ động trên con đường kiếm tìm hạnh phúc

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Có thể nói nỗi nhớ luôn gắn liền với tình yêu, nỗi nhớ là biểu hiện đầy đủ và sâu sắc nhất cho một tình yêu chân thành mãnh liệt. đặc biệt là khi hai người phải xa nhau. Đến với thơ Xuân Quỳnh người đọc đã được khám phá một nỗi nhớ cồn cào mãnh liệt da diết bồi hồi không dứt, không nguôi. Nó dâng trào và mãnh liệt như những đợt sóng biển triền miên vô hồi, vô hạn. Một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, xâm chiếm cả dòng chảy thời gian bất tận và choán ngợp cả tâm trí người con gái.
Tác giả sử dụng những từ ngữ tương phản trái nghĩa “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, “ngày” – “đêm” diễn tả được nhiều chiều kích của nỗi nhớ. Điệp từ “sóng” được lặp lại ba lần gợi hình ảnh những con sóng cứ vỗ rập rìu như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết. Cả ba câu thơ gắn liền với hình sóng giống như những đợt sóng đang gối lên nhau hối hả vươn tới bờ hay đó cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu : Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ. Phải chăng những rung cảm quá đỗi mãnh liệt của trái tim yêu đã buộc lời thơ phải dài ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ.

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Con người luôn sống với hai trạng thái mơ và thức thì nỗi nhớ anh dường như đã xóa nhòa mọi khoảng cách giữa miền ý thức và miền vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành một nhịp đập trọn vẹn trong trái tim người con gái đang yêu. Nó cứ bồi hồi, triền miên da diết như hơi thở của sóng. Nỗi nhớ đã không còn được chuyển tải qua hình ảnh dụng sóng mà đến đây Xuân Quỳnh đã bộc lộ một cách chân thành trực tiếp đầy mãnh liệt nỗi nhớ luôn thấp thỏm âm ỉ trong trái tim mình.
Hình tượng sóng và em quyện hòa, đắp đổi nhưng cũng có những lúc em tự tách mình ra khỏi xong để nhận thức được rõ hơn về những cảm xúc riêng tư thầm kín của chính mình.
Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện ở khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu cho cuộc đời để tình yêu trở nên bất tử

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Người con gái Xuân Quỳnh đã có những ý thức vô cùng sâu sắc vê tình yêu của mình. Bà khát khao được tan ra để hòa vào biển lớn tình yêu. Đó chính là khao khát được dâng hiến cho tình yêu – vẻ đẹp thánh thiện của người con gái khi yêu. Khát vọng đó bắt nguồn từ một thái độ sống thái độ yêu gắn liền với sự dâng hiến.
Bằng một cách Ý nhị và kín đáo nhất, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để diễn tả những cung bậc cảm xúc, Những quy luật tình cảm muôn đời của người con gái khi yêu.
Vẻ đẹp truyền thống được biểu hiện ở những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong trái tim người con gái đáng yêu.

“Dữ dội và dịu em
Ồn ào và lặng lẽ”

Hình ảnh sóng hiện ra với nhiều đối cực khác nhau “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Đây là những biểu hiện thường thấy ở những con sóng gợi lên những nét tương đồng với người con gái khi yêu lúc thì dịu dàng đằm thắm, lúc thì mạnh mẽ dữ dội. Dù cho người phụ nữ có mang bao nhiêu nét đẹp hiện đại thì Dường như cũng có những nét trạng thái không bao giờ đổi thay trong trái tim yêu.
Tuy nhiên với việc sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu kết hợp với liên từ “và” nối kết các từ trái nghĩa đã thể hiện được những sự thống nhất trong tâm trạng của người con gái. Tính khí của người con gái khi yêu là vậy, nó vốn mang trong mình nhiều đối cực mẫu thuẫn nhưng đó lại là những mâu thuẫn trong thống nhất bởi tất cả đều là biểu hiện của một trái tim chân thành mãnh liệt.
Trái tim luôn thuỷ chung son sắt Hương đến người mình yêu của người phụ nữ là biểu hiện của một về đẹp mang đậm tính truyền thống của người con gái Việt Nam.

“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng
Hướng về anh một phương”

Tác giả sử dụng lối nói đối lập, tương phản kết hợp với các từ ngữ chỉ hướng ngược nhau “xuôi” – “ngược, “Bắc” – “Nam” để diễn tả, khuyếch đại được không gian nhằm bộc lộ, khẳng định nỗi nhớ của mình đồng thời gửi gắm trong đó còn là nỗi âu lo trăn trở suy tư về lòng người.
Mặc cho dòng đời có tấp lập, giữa bốn bề cuộc sống muôn phương cách trở của không gian , thời gian thì em vẫn luôn hướng về một phương – đó là phương anh. Dấu gạch ngang được sử dụng ở giữa dòng nhằm nhấn mạnh tình yêu thủy chung son sắt vẹn toàn trong trái tim em đối với anh. Khoảng cách muôn trùng có thể ngăn bước chúng ta đến bên nhau nhưng không thể ngăn nổi trái tim yêu cồn cào mãnh liệt này hướng về anh.
Về đẹp truyền thống biểu hiện ở niềm tin mãnh liệt vào tình yêu mặc cho muôn vàn trở về trước của người con gái

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Xuân Quỳnh mượn quy luật của tự nhiên, của những con sóng để nói đến quy luật của lòng người . Sóng luôn khao khát vươn tới bờ như em luôn khao khát có anh. Cũng như những con sóng vượt qua mọi cách trở luôn vươn tới được bờ, em với trái tim yêu chân thành này cũng sẽ bước qua mọi thử thách khó khăn đi cập bến bờ hạnh phúc. Tác phẩm được Xuân Quỳnh viết sau khi trải qua những đổ vỡ, đắng cay của tình yêu vậy mà trong trái tim bà vẫn vẹn toàn một niềm tin son sắt đối với tình yêu, với cuộc đời, với con người. Niềm tin yêu của người con gái thật mãnh liệt nhưng ta cũng thấy được những trăn trở lo âu không hề dấu diếm của người con gái
Cuộc đời tuy dài thế năm tháng vẫn đi qua như biển kia dẫu rộng mây vẫn bay về xa
Không biết do trái tim của người phụ nữ hay sự tinh tế giàu cảm xúc của người nghệ sĩ mà Xuân Quỳnh là người nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian. Bà có ý thức sâu sắc về sự ngắn ngủi hữu hạn của đời người giữa tương quan với cái vô hạn mênh mông của vũ trụ, sóng biển cũng như sự mong manh sương khói của tình yêu

“Lời yêu mỏng manh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay”

Cấu trúc câu nhượng bộ, tăng tiến “tuy” – “vẫn” – “dẫu”, giọng điệu khẳng định mạnh mẽ thể hiện niềm tin mãnh liệt son vào sức mạnh của tình yêu hạnh phúc cuộc đời. Hình ảnh cuộc đời dài rộng, đại dương mênh mông cũng có thể được tượng cho những thử thách lớn lao, tuy nhiên thử thách chắc chắn sẽ vượt qua khoảng cách không gian sẽ được xóa bỏ.
Như vậy dù táo bạo và hiện đại dù khát khao mãnh liệt bao nhiêu thì người phụ nữ trong tình yêu vẫn trở về với những vẻ đẹp nữ tính truyền thống muôn đời của người phụ nữ. Đó là những giá trị đặc trưng củacon người Việt Nam, đó là biểu hiện của cái mà Xuân Quỳnh gọi là giá trị người :

“Đó là tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng
Lòng tắt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự người hơn”

Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ không có dấu câu, nhịp ngắn 2/3 nhịp nhàng đều đặn góp phần tạo nên âm hưởng của những con sóng vào bờ không nguôi không dứt. Bên cạnh đó Xuân Quỳnh còn tập trung xây dựng hai hình ảnh song hành song đôi “sóng – em”. Sóng là ẩn dụ của em với tâm hồn giàu khát vọng và những biến động phong phú phức tạp. Đôi khi em trách mình ra khỏi sóng soi mình vào lòng sống để nhận thức rõ hơn về tâm hồn mình.
Bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị mộc mạc nhưng cũng rất trẻ trung giàu nữ tính giàu sức gợi hình, có tính nhạc và biểu cảm cao. Nhà thơ sử dụng rộng rãi những biện pháp tu từ như nhân hóa, điệp cấu trúc kết hợp với giọng điệu linh hoạt lúc sôi nổi nồng nàn trong khát vọng hạnh phúc, lúc lắng xuống với những trăn trở suy tư về hạnh phúc của cuộc đời. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng nhịp nhàng vỗ vào bờ cát lúc mạnh mẽ lúc dịu êm
Người phụ nữ nhân vật trữ tình trong bài thơ mang về đẹp hài hòa giữa những nét đẹp truyền thống đặc trưng cùng với đó là về đẹp vô cùng hiện đại táo bạo mà vẫn thật chân thành và tha thiết. Tuy nhiên dù là vẻ đẹp nào thì đó tất cả đều là tập trung thể hiện cho khát vọng yêu và được yêu một người phụ nữ. Đó là khát khao và là giá trị muôn đời của bất cứ người con gái nào trong tình yêu.
Xem thêm tại >>> https://tomtat.net/category/tom-tat-van-hoc/

%d bloggers like this: